Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam-Nam Phi đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây nhưng quả thực vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước. Một trong những nguyên nhân của sự hạn chế trên đó là thông tin về thị trường, luật pháp của hai nước vẫn còn hạn chế. Việc nắm vững các đạo luật có liên quan tới hoạt động kinh doanh tại thị trường Nam Phi sẽ góp phần thúc đẩy hơn nũa thương mại Việt Nam-Nam Phi.
Luật về Sở hữu trí tuệ
Nam Phi có Luật Sở hữu trí tuệ tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ với phạm vi điều chỉnh bao quát hầu hết các lĩnh vực liên quan tới sở hữu trí tuệ từ bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp đến bản quyền và thương hiệu. Luật Sở hữu trí tuệ của Nam Phi đã được bổ xung và chỉnh sửa dựa theo các yêu cầu về “TRIPS” của Tổ chức Thương mại Quốc tế và Hiệp định Quốc tế về bảo vệ người trình diễn, các sản phẩm ngữ âm và các Tổ chức Phát thanh và Truyền hình.
Bằng sáng chế
Bằng sáng chế được cấp cho những phát minh chưa từng được biết tới và khác biệt một cách thích đáng so với những gì đã được thực hiện trước đó trong cùng lĩnh vực. Một cá nhân có thể đề nghị một bằng sáng chế tạm thời trong một năm với mức phí 60 Rand. Trước khi bằng sáng chế tạm thời hết hạn, người được uỷ quyền/đại diện của bằng sáng chế phải trình ra một đơn xin cấp bằng sáng chế hoàn chỉnh với mức phí 266 Rand. Sẽ mất từ 12 tới 18 tháng để có bằng sáng chế tại Nam Phi. Bằng sáng chế có giá trị tới 20 năm kể từ ngày đăng ký tuỳ theo việc trả các phí gia hạn theo quy định.
Để đăng ký bảo vệ bằng sáng chế, trước hết cần tiến hành việc kiểm tra xác minh để đảm bảo không vi phạm vào các quyền về bằng sáng chế hiện hành. Công việc kiểm tra xác minh này có thể thực hiện tại văn phòng Đăng ký bằng sáng chế với mức phí phải trả là 4 Rand. Phòng đăng ký không thực hiện tiến hành công việc này mà khách hàng có trách nhiệm đích thân thực hiện
Mọi văn bản trừ các bản vẽ phải:
- Là bản đánh máy hoặc bản in từ máy và phải có màu tối;
- Không bị tẩy xoá, sửa chữa, viết đè, viết xen và phải rõ ràng, dễ đọc;
- Có thể sao chụp với số lượng không giới hạn;
- Không bị rạn nứt, nhàu và có nếp gấp. Các bản vẽ phải trình bày trên khổ giấy A4
Phòng đăng ký Bằng sáng chế kiểm tra đơn xin cấp bằng sáng chế hoàn chỉnh và nếu thấy hợp lệ, dựa trên các qui định của Đạo luật về Bằng sáng chế Nam Phi và sẽ được công bố trong công báo Bằng sáng chế và Thương hiệu. Dựa trên Hiệp định Bằng sáng chế Quốc tế, người đăng ký có thể trình đơn xin cấp bằng sáng chế tại nước ngoài và đề nghị được ưu tiên về ngày giống như đơn xin cấp bằng sáng chế gốc tại Nam Phi.
Kiểu dáng
Kiểu dáng kết hợp với thẩm mỹ của một sản phẩm được bảo vệ và đăng ký theo các điều khoản của Đạo luật về thiết kế, số 195 năm 1993, với điều kiện là sản phẩm này mới so với các sản phẩm trước đó trong lĩnh vực tương tự. Kiểu dáng được chia thành kiểu dáng theo thẩm mỹ và kiểu dáng theo chức năng. Mọi cá nhân đều có thể đưa ra kiểu dáng, không yêu cầu có người nhận uỷ quyền. Phí nộp đơn đăng ký kiểu dáng là 110 Rand. Thời hạn đăng ký là 15 năm đối với kiểu dáng thẩm mỹ và 10 năm đối với kiểu dáng theo chức năng, cả hai đều có thể gia hạn sau khi dóng phí gia hạn theo qui định.
Bản quyền
Những công việc nghệ thuật và các công việc bao gồm các nội dung về trí tuệ như các nghề thuộc lĩnh vực văn học, âm nhạc, phim ảnh, thu âm, các bản vẽ (bao gồm các bản vẽ kỹ thuật), các kế hoạch, các chương trình máy tính, các bức tranh mọi thể loại và các tác phẩm hai chiều, ba chiều khác nhau mang nội dung thuộc trí tuệ đều được bảo vệ bởi Đạo luật về Bản quyền số 98 năm 1978. Thời hạn hiệu lực của bản quyền kéo dài trong 50 năm.
Thương hiệu
Thương hiệu có thể được đăng ký theo Đạo luật về Thương hiệu số 194 năm 1993. Sau giai đoạn đầu tiên kéo dài 10 năm, thương hiệu có thể được gia hạn thêm 10 năm nữa. Phí nộp đơn đăng ký thương hiệu là 266 Rand. Trung bình, việc xét duyệt thông qua thương hiệu đòi hỏi ít nhất 2 năm, nhưng một doanh nghiệp có thể kinh doanh trong thời gian này. Tất cả đơn đăng ký có thể nộp tận tay hoặc gửi theo đường bưu điện cho Phòng đăng ký, các loại phí sẽ trả bằng tem thuế.
Luật Cạnh tranh
Một đạo luật mới về cạnh tranh năm 1998 đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng 9 năm 1999. Đạo luật này cải cách toàn diện luật cạnh tranh của Nam Phi và có ảnh hưởng đáng kể tới các hoạt động kinh doanh tại Nam Phi. Đạo luật cho phép các cơ quan chức năng về cạnh tranh được quản lý tính cạnh tranh và các vấn đề về lợi ích cộng đồng trong đó bao gồm việc trao quyền kinh tế cho người da đen. Đạo luật này về căn bản cũng tăng cường quyền hạn của các cơ quan chức năng về cạnh tranh ở những lĩnh vực tương tự như Liên minh Châu Âu, Canada và Mỹ bằng việc cho họ quyền khám xét và tịch biên.
Đạo luật quy định về:
- Việc thành lập của Uỷ ban cạnh tranh, Toà án cạnh tranh và Toà án phúc thẩm về cạnh tranh, những cơ quan này không lệ thuộc vào Chính phủ, dù vậy, theo những yêu cầu nhất định trong Đạo luật, Uỷ viên Hội đồng được Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp bổ nhiệm còn các thành viên của Toà án và Toà án Phúc thẩm do Tổng thống bổ nhiệm.
- Các luật cấm hành vi phản cạnh tranh, các biện pháp hạn chế (ví dụ như sự duy trì giá bán lại thấp nhất, phá giá, ấn định giá và thông đồng bỏ thầu)
- Thủ tục khai báo và phê chuẩn trước đối với việc liên doanh hoặc mua lịa nhất định. Việc liên doanh hoặc mua lại đã khai báo sẽ bị coi vô hiệu nếu không có sự phê chuẩn trên.
- Các cơ quan chức năng về cạnh tranh có quyền thực thi pháp luật ngoài Nam Phi đối với những hoạt động kinh doanh trong nước hoặc có ảnh hưởng đến Nam Phi.
Luật cạnh tranh cũng qui định một số hình phạt khi có sai phạm trong đó có qui định mức tiền phạt tối đa 10% doanh thu hàng năm của công ty hoặc xuất khẩu từ Nam Phi.
Đạo luật về cạnh tranh cũng được áp dụng cho các thoả thuận và dàn xếp liên quan tới sở hữu trí tuệ. Đây là sự khác biệt đáng kể so với Luật cạnh tranh trước đó đã tách riêng sở hữu trí tuệ ra khỏi phạm vi của luật cạnh tranh Nam Phi.
Luật Lao động
Các luật lao động mới đã được ban hành tại Nam Phi nhằm: Quy định quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động; Cung cấp các tiêu chuẩn cơ bản về việc làm cho những người lao động; Cải thiện những thiệt thòi trước đây của người lao động tại nơi làm việc; và Nâng cao kỹ năng của người lao động.
Đạo luật về Quan hệ lao động (LRA)
LRA áp dụng cho tất cả người lao động tại Nam Phi trừ những nhân viên lực lượng quốc phòng và cơ quan tình báo quốc gia.
LRA khuyến khích và quy định việc thương lượng giữa người sử dụng lao động và công đoàn. Các hội đồng thương lượng có thể thành lập với sự đồng ý giữa công đoàn đã được đăng ký của người sử dụng lao động. Chức năng chính của hội đồng thương lượng là quyết định các thoả thuận được thống nhất giữa tổ chức của người sử dụng lao động và công đoàn.
Người lao động có quyền bãi công đối với những vấn đề về quyền lợi chung như tiền lương và điều kiện làm việc. Họ không được bãi công do bị sa thải. Đạo luật cũng đề ra một quy trình cần thiết phải tuân thủ trước khi thực hiện quyền bãi công. Các cuộc bãi công khi đó được coi là đúng trình tự thủ tục và những người lao động sẽ không bị sa thải do tham gia bãi công.
LRA điều chỉnh việc sa thải không công bằng, thành lập uỷ ban hoà giải, dàn xếp và phân xử (CCMA) và Toà án Lao động với tư cách là các cơ quan giải quyết bất đồng và hầu hết các bất đồng phải được CCMA hoà giải trước. Toà án lao động, mặt khác, có đặc quyền pháp lý đối với những vấn đề như cắt giảm nhân công, cấm bãi công và xem xét lại các quyết định của CCMA. Việc kháng cáo các quyết định của Toà án Lao động thuộc quyền của Toà án Phúc thẩm về Lao động.
Sa thải người lao động
Tại Nam Phi người lao động có thể bị sa thải nếu có một lý do chính đáng và phải tuân theo một trình tự thủ tục hợp lý trước khi sa thải người lao động. Lý do sa thải chính đáng gồm:
- Người lao động có hành vi sai trái trong công việc;
- Không có đủ năng lực làm việc (không có khả năng thực hiện hợp lý các công việc do đau ốm, sức khoẻ yếu hoặc do trình độ kém; và
- Các nguyên nhân về điều hành (cắt giảm nhân công).
Trong các trường hợp trên đều phải làm theo trình tự các thủ tục ghi trong lRA cũng như các thủ tục về kỷ luật của riêng công ty trước khi sa thải người lao động.
Cắt giảm nhân công: trước khi người sử dụng lao động cắt giảm nhân công, người sử dụng lao động phải bàn bạc với người lao động có liên quan hoặc công đoàn của họ về những vấn đề, trong đó có lý do sa thải, số lượng người lao động
Đạo luật về bình đẳng trong công việc
Đạo luật này nghiêm cấm sự phân biệt đối xử tại nơi làm việc và thúc đẩy công bằng trong công việc. Những người lao động bị đối xử vì những lý do bao gồm chủng tộc, giới tính và sự tàn tật được phép bày tỏ sự bất đồng đối với người sử dụng lao động. Những tranh cãi như vậy sẽ được hoà giải và nếu không được giải quyết thì có thể hợc do trọng tài phân xử hoặc đưa ra Toà án lao động để xét xử.
Người sử dụng lao động có hơn 150 nhân công bắt buộc phải báo cáo cho Bộ Lao động hàng năm và bắt buộc phải thực hiện sự bình đẳng trong công việc hoặc các kế hoạch hành động mang tính khẳng định. Người sử dụng lao động có từ 50 tới 150 nhân công được yêu cầu phải báo cáo hai năm một lần. Tại Nam Phi, việc xúc tiến sự công bằng trong công việc sẽ làm cho các doanh nghiệp có được lợi thế lớn nhất về sự đa dạng nguồn lực.
Một số quy định về thời gian làm việc và nghỉ phép
Số giờ làm việc thông thường tối đa của người lao động trong một tuần hoặc một ngày như sau:
- 45 tiếng một tuần;
- 09 tiếng một ngày đối với người lao động làm việc từ 05 ngỳa một tuần trở xuống; và
- 08 tiếng một ngày đối với người lao động làm việc nhiều hơn 05 ngày một tuần.
Bất kỳ thời gian làm việc nào vượt quá phạm vi trên được coi là ngoài giờ. Người lao động không thể bị đòi hỏi hay được cho phép làm việc ngoài giờ trừ khi có một thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc là một hợp đồng làm việc ngoài giờ bắt buộc hoặc một thoả thuận đặc biệt về làm ngoài giờ tự nguyện. Người lao động làm việc ngoài giờ phải được trả gấp 1.5 lần một giờ so với lương thông thường. Người lao động thông thường vẫn làm việc trong ngày chủ nhật thì được trả lương gấp rưỡi so với thời gian làm việc trong ngày thường. Đối với người lao động không làm việc thông thường trong ngày chủ nhật thì họ được trả gấp đôi so với lương bình thường.
Người lao động được phép nghỉ ít nhất 21 ngày liên tiếp trong mỗi năm là việc. Thời điểm nghỉ phép được thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Nếu không đạt được thoả thuận , người sử dụng lao động có quyền quết định thời điểm nghỉ phép.
Theo Vinanet