Theo số liệu thống kê mới công bố của Tổng cục Hải quan, tính từ đầu năm đến hết quý I-2013, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt gần 59,25 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2012. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan, trong đó có nhiều nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD.
Điện thoại các loại và linh kiện: Trị giá xuất khẩu trong tháng 3-2013 đạt 1,74 tỷ USD, tăng 44,4% so với tháng trước, qua đó nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng năm 2013 lên 4,42 tỷ USD, tăng 87,2% so với cùng kỳ năm 2012.
Hàng dệt may: Xuất khẩu trong tháng đạt hơn 1,3 tỷ USD, tăng 43,4% so với tháng trước, qua đó nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng năm 2013 lên gần 3,79 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2012 (tương ứng tăng 585 triệu USD).
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu nhóm hàng này đạt 2,24 tỷ USD, tăng 13,9% và chiếm 59,2% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này cả nước.
Trong 3 tháng qua, Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU tiếp tục là 3 đối tác thương mại lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng so với cùng kỳ năm 2012 tương ứng là 1,9 tỷ USD và 16,6%; 531 triệu USD và 20,2%; 519 triệu USD và 11,2%. Tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang 3 khu vực thị trường này đạt 2,95 tỷ USD, chiếm tới 78% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Trị giá xuất khẩu trong tháng 3-2013 đạt hơn 883 triệu USD, giảm 49,1%, qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này 3 tháng năm 2013 đạt 2,36 tỷ USD, tăng 44,9% so với cùng kỳ năm 2012 (tương đương tăng 732 triệu USD về số tuyệt đối).
Dầu thô: Lượng dầu thô xuất khẩu trong 3 tháng đầu năm 2013 đạt hơn 2 triệu tấn, tăng 16,3% và trị giá đạt 1,85 tỷ USD, tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng 130 triệu USD, trong đó kim ngạch tăng do lượng tăng là 280 triệu USD và giá giảm (7,5%) làm cho trị giá xuất khẩu nhóm hàng này giảm 150 triệu USD.
Xuất khẩu dầu thô sang một số thị trường chính quý I-2013
Stt |
Thị trường |
Lượng (nghìn tấn) |
Tốc độ tăng/giảm so với cùng kỳ năm 2012 (%) |
1 |
Nhật Bản |
644 |
-12,7 |
2 |
Hàn Quốc |
361 |
354,3 |
3 |
Malaixia |
360 |
84,0 |
4 |
Ôxtrâylia |
262 |
3,3 |
5 |
Hoa Kỳ |
148 |
102,2 |
6 |
Trung Quốc |
81 |
-68,0 |
7 |
Singapore |
42 |
-31,0 |
8 |
Các thị trường khác |
156 |
38,6 |
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Giày dép các loại: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 537 triệu USD, tăng 42,1% so với tháng trước. Tính từ đầu năm đến hết tháng 3-2013, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 1,73 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2012.
Kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 537 triệu USD, tăng 42,1% so với tháng trước. Tính từ đầu năm đến hết tháng 3-2013, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 1,73 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong 3 tháng năm 2013, xuất khẩu giày dép sang thị trường EU là 573 triệu USD, tăng 8,4% và chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 545 triệu USD, tăng 24,5%; sang Nhật Bản đạt 101 triệu USD, tăng 14,1%; sang Trung Quốc đạt gần 90 triệu USD, tăng 9,1%;... so với cùng kỳ năm 2012.
Nhóm hàng phương tiện vận tải và phụ tùng các loại: Tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng qua đạt 1,29 tỷUSD, tăng 20,7% so với 3 tháng năm 2012.
Nhật Bản là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 3 tháng qua với 411 triệu USD, tăng 1,4%; tiếp theo là Hàn Quốc 223 triệu USD, tăng 15,3%; Hoa Kỳ 154 triệu USD, tăng 13,3%;… so với cùng kỳ năm trước.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: Trong tháng 3-2013, xuất khẩu đạt 463 triệu USD,tăng 44,1%, nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng năm 2013 lên 1,24 tỷ USD, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2012.
Hàng thủy sản: xuất khẩu trong tháng là 482 triệu USD, tăng 73% so với tháng trước, nâng tổng trị giá xuất khẩu trong 3 tháng năm 2013 lên 1,24 tỷ USD, giảm 3,7% so với cùng kỳ năm 2012.
Đối tác dẫn đầu nhập khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam là EU với gần 236 triệu USD, giảm 9,1%. Tiếp theo là Hoa Kỳ gần 228 triệu USD, giảm 4,2%; Nhật Bản 205 triệu USD, giảm 6,3% và Hàn Quốc đạt gần 83 triệu USD, giảm 24,4%;… so với 3 tháng năm 2012.
Gỗ và sản phẩm gỗ: Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng năm 2013 lên gần 1,17 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2012.
Tính đến hết tháng 3-2013, nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất sang Hoa Kỳ đạt 394 triệu USD, tăng 8,6%; sang thị trường EU gần 190 triệu USD, tăng 1,4%; sang Trung Quốc 186 triệu USD, tăng 23%; sang Nhật Bản gần 175 triệu USD, tăng 16,2%;… so với cùng kỳ năm 2012.
Cà phê: Tính đến hết tháng 3-2013 xuất khẩu cà phê vượt xa mặt hàng gạo (kim ngạch cao hơn đến 326 triệu USD) và trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta (tỷ trọng 30%). Số liệu thống kê cho thấy quý I-2013 lượng cà phê xuất khẩu đạt 476 nghìn tấn và trị giá đạt 1,02 tỷ USD, giảm 10,9% về lượng và giảm 7,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Cao su: Xuất khẩu cao su giảm mạnh cả về lượng và đơn giá so với cùng kỳ năm 2012. Lượng xuất khẩu trong quý I-2013 là 190 nghìn tấn, giảm 12% và đơn giá bình quân giảm 7,8% nên kim ngạch chỉ đạt 509 triệu USD, giảm 18,8%. Đây là mặt hàng nông sản có mức giảm kim ngạch lớn nhất, giảm 118 triệu USD so với cùng kỳ năm trước; trong đó, phần trị giá giảm do lượng giảm là 75 triệu USD và do giá giảm là 43 triệu USD.
Gạo: Là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá bình quân giảm mạnh nhưng lượng xuất khẩu lại tăng cao so với quý I năm trước. Lượng gạo xuất khẩu trong quý I-2013 đạt 1,57 triệu tấn, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Đơn giá xuất khẩu gạo bình quân 3 tháng năm 2013 khoảng 440 USD/tấn, giảm 10%, tính riêng yếu tố giá giảm đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam giảm doanh thu xuất khẩu gần 77 triệu USD. Tính chung, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 698 triệu USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong 3 tháng đầu năm nay, gạo của Việt Nam xuất sang các thị trường Trung Quốc, Singapore, Philippines, Hồng Kông tăng cao. Lượng gạo xuất sang 4 thị trường này đạt 925 nghìn tấn, tăng 120% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, xuất sang các thị trường chính khác thuộc khu vực châu Á lại giảm mạnh như Inđônêxia (-76,6%) , Malaixia (-76,4%) và Đài Loan (-53,9%).
Hạt điều: Là mặt hàng nông sản có đơn giá bình quân xuất khẩu giảm mạnh nhất, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng yếu tố giá giảm đã làm cho kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này giảm gần 40 triệu USD. Lượng hạt điều xuất khẩu đạt 43,1 nghìn tấn, tăng 15,4% và trị giá đạt 262 triệu USD, tăng nhẹ 0,1% so với cùng kỳ năm 2012. Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn đầu về tiêu thụ hạt điều của Việt Nam, đạt 10,6 nghìn tấn, tăng 0,5% và chiếm gần 1/3 lượng điều xuất khẩu của cả nước.
Than đá: Lượng xuất khẩu trong tháng đạt 1,68 triệu tấn, trị giá đạt 117 triệu USD, tăng 32,3% về lượng và tăng 32,4% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 3-2013, lượng xuất khẩu than đá của cả nước là gần 4,2 triệu tấn, trị giá là 289 triệu USD, tăng 31% về lượng và tăng 0,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2012.
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện: Tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng năm 2013 gần 272 triệu USD, giảm 27,9% so với cùng kỳ năm trước.
Hồng Kông là đối tác chính nhập khẩu máy ảnh, máy quay phim và linh kiện của Việt Nam trong 3 tháng năm 2013 với 252 triệu USD, giảm 27,2% so với 3 tháng năm 2012 và chiếm 92,8% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Theo vinanet