Theo số liệu thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hàng hóa trong tháng 7-2016 tăng nhẹ 1,2% về số tương đối và tăng 183 triệu USD về số tuyệt đối so với tháng trước.
Hết 7 tháng/2016, xuất khẩu cả nước tăng 5,4%, tương ứng tăng hơn 5 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước với 19 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, trong đó có tới 9 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 2 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu của 19 nhóm hàng này là 81,39 tỷ USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2015 và chiếm tới 84% trong tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của cả nước.
Điện thoại các loại & linh kiện: Xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong tháng 7-2016 đạt 2,68 tỷ USD, tăng nhẹ 1,1% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 19,6 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2015.
Các thị trường chính nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện từ Việt Nam trong 7 tháng/2016 là: thị trường EU: 6,15 tỷ USD, tăng 7,1% và chiếm 31% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất: 2,59 tỷ USD, giảm 3,5%; Hoa Kỳ: 2,33 tỷ USD tăng 52,8% lần so với cùng kỳ năm trước.
Hàng dệt may: Xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng/2016 không có nhiều đột phá, tăng trưởng ở các thị trường chính đều dưới mức 5% và là mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 6 năm qua. Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng7-2016 đạt 2,32 tỷ USD, tăng 3,6% so với tháng trước, qua đó nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng/2016lên 13,15 tỷ USD, tăng 4,7% (tương đương tăng 586 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2015.
Trong đó: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 6,52 tỷ USD, tăng 3,9%; sang EU đạt 2,03 tỷ USD, tăng 4,4%; sang Nhật Bản đạt 1,55 tỷ USD, tăng 4,7%…
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: Xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 1,52 tỷ USD, tăng 1,3% so với tháng trước, nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng/2016 lên 9,4 tỷ USD, tăng 9,7% (tương đương tăng 830 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2015.
Các thị trường chính nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện từ Việt Nam trong 7 tháng/2016 là: thị trường EU: 1,99 tỷ USD, tăng 18,6%; Trung Quốc: 1,66 tỷ USD, tăng 14,5%; Hoa Kỳ: 1,63 tỷ USD, tăng 7,9%; Hông Kông: 844 triệu USD, giảm 14,4%…so với cùng kỳ năm trước.
Giày dép các loại: Tháng 7-2016, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 1,16 tỷ USD, giảm 5,7% so với tháng trước, nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng/2016 lên 7,43 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2015.
Hoa Kỳ và EU là 2 thị trường lớn nhất nhập khẩu hàng giày dép của Việt Nam với tổng kim ngạch xuất khẩu sang 2 thị trường này lên tới 5,03 tỷ USD, chiếm gần 68% tổng trị giá xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm nay. Trong đó, xuất khẩu sang Hoa Kỳ là 2,55 tỷ USD, tăng 8,4% và sang EU là 2,48 tỷ USD, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước.
Dầu thô: Lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là gần 554 nghìn tấn, giảm nhẹ 1,6% so với tháng trước với trị giá là 189 triệu USD, giảm 9%. Tính đến hết tháng 7-2016, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 4,1 triệu tấn, giảm mạnh 24,4% và kim ngạch đạt 1,31 tỷ USD, giảm mạnh 46,5% so với cùng kỳ năm trước.
Dầu thô của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc: 2,5 triệu tấn, tăng mạnh 118,2%; sang Malaixia: 359 nghìn tấn, giảm 70,5%; sang Australia: 263 nghìn tấn, giảm mạnh 78,2%; sang Nhật Bản: 189 nghìn tấn, giảm 87% so với cùng kỳ năm 2015.
Hàng rau quả: Xuất khẩu hàng rau quả trong tháng 7-2016 đạt 199 triệu USD, tăng 14% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này trong 7 tháng/2016 lên 1,35 tỷ USD, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, xuất khẩu mặt hàng thanh long chiếm tỷ trọng kim ngạch cao nhất, chiếm đến 35% và đạt 477 triệu USD, tăng mạnh 2,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, xuất khẩu quả vải tươi cũng đạt được tăng trưởng tốt trong 7 tháng/2016, với kim ngạch gần 48 triệu USD, tăng gấp 3 lần.
Gạo: Lượng gạo xuất khẩu tháng 7-2016 đạt 287 nghìn tấn, giảm 12% so với tháng trước, nâng tổng lượng xuất khẩutrong 7 tháng/2016 lên 2,94 triệu tấn giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù, đơn giá xuất khẩu bình quân trong 7 tháng/2016 của nhóm hàng này tăng 4,9%, nhưng do lượng giảm nên trị giá xuất khẩu chỉ đạt 1,32 tỷ USD, giảm 14,1% so với 7 tháng/2015.
Xuất khẩu gạo trong 7 tháng/2016 sang 2 thị trường lớn là Trung Quốc đạt 1,04 triệu tấn, giảm 21,6% và sang Philippin đạt 194 nghìn tấn, giảm 67%. Tuy nhiên, lượng gạo xuất khẩu sang thị trường Inđônêxia trong 7 tháng/2016 tăng tới hơn 25 lần so với cùng kỳ năm trước và đạt 353 nghìn tấn.
Cao su: Xuất khẩu cao su của Việt Nam vào vụ xuất khẩu, đạt mức cao nhất tính từ đầu năm nay.
Lượng xuất khẩu cao su trong tháng đạt 128 nghìn tấn, tăng tới 54,1% và trị giá là 163 triệu USD, tăng 49,7% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7-2016, tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 572 nghìn tấn, tăng10,2% so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu bình quân mặt hàng cao su lại giảm mạnh 14,5% (tương đương giảmkhoảng 210 USD/tấn) nên trị giá xuất khẩu chỉ đạt 715 triệu USD, giảm 5,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cao su của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang các thị trường sau: Trung Quốc: 322 nghìn tấn, tăng 30,1%; Ấn độ: 45,4 nghìn tấn, tăng 13%, Malaysia: 43,6 nghìn tấn, giảm 50,2%; .. so với cùng kỳ năm 2015.
Cà phê: Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 7-2016 là gần 140 nghìn tấn, trị giá đạt 264 triệu USD, giảm 11,8%% về lượng và giảm 9,7%% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7-2016, lượng cà phê xuất khẩu của cả nước đạt 1,12 triệu tấn, trị giá đạt 1,97 tỷ USD, tăng 37,6% về lượng và tăng 17,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2015.
Theo Báo Hải Quan