|
Theo thống kê của Cục chăn nuôi (Bộ NN&
PTNT), hiện nay Việt Nam phải nhập từ nước ngoài trên 50% số lượng nguyên liệu
thức ăn chăn nuôi (bao gồm cả nguyên liệu sản xuất thức ăn thuỷ sản). Trong đó,
ngô nhập khoảng 25%, đậu tương, khô dầu đậu tương phải nhập khẩu 90-95%. Các
loại premix khoáng, vitamin, dầu cá, các chất tạo mầu, mùi phải nhập khẩu
95-98% từ nước ngoài. Như vậy, tuy việc nhập khẩu thức ăn hỗn hỗn hợp hoàn
chỉnh đã ngày một giảm thay bằng việc tự sản xuất trong nước, nhưng ngành sản
xuất thức ăn thuỷ sản của Việt Nam vẫn phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu
nhập khẩu.
Số liệu từ TCHQ cho thấy, tính đến hết
tháng 11 Việt nam đã nhập trên 2 tỷ USD TĂGS và nguyên liệu, chiếm 2,1% tỷ
trọng, tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 11, Việt Nam đã
chi 235,6 triệu USD, tăng 51,5% so với tháng liền trước và tăng 25% so với
tháng 11/2010.
Thị trường chính cung cấp TĂGS và nguyên liệu cho
Việt Nam là Achentina, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Trung Quốc…. Trong đó Achentina là thị
trường có kim ngạch nhập cao nhất, với 537,8 triệu USD, chiếm 25,8% tỷ
trọng, tăng 13,49% so với cùng kỳ năm 2010.
Đứng thứ hai là thị trường Ấn Độ với kim ngạch
nhập trong tháng 33,2 triệu USD, tăng 140,4% so với tháng liền trước, nhưng
giảm 33,85% so với tháng 10/2010. Tính chung 11 tháng năm 2011, Ấn Độ đã xuất
khẩu 431,1 triệu USD TĂGS và nguyên liệu sang Việt Nam, tăng 19,37% so với cùng
kỳ năm trước.
Theo thống kê của Bộ NN & PTNT, so với thời
điểm Quý 2, giá một số nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đã giảm, giá nhiều loại
nguyên liệu đầu vào, tỷ giá USD/VND cũng giảm. Cụ thể đậu tương giảm 7,4%, lúa
mì giảm 6,9%, ngô giảm 7,7%, bột cá giảm 5,3%... nhưng giá bán thức ăn không
giảm hoặc có giảm thì không đáng kể và giảm rất chậm. Đó là chưa kể đến từ ngày
1/1/2011 thuế nhập khẩu một số loại nguyên liệu như bột cá, bột thịt, dầu cá...
đều giảm từ 5-10% về 0% và thuế VAT cho nguyên liệu sản xuất thức ăn thuỷ sản
là 5%. Tuy nhiên, giá thức ăn chăn nuôi thủy sản lại không có dấu hiệu giảm.
Theo nhìn nhận của Tổng Cục thủy sản, việc vẫn
giữ giá bán thức ăn cao trong khi giá nguyên liệu giảm là do chủ quan của doanh
nghiệp sản xuất thức ăn, trong trường hợp này người nuôi thuỷ sản hoàn toàn
chịu thiệt. Đây cũng là tồn tại đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội
thức ăn chăn nuôi và doanh nghiệp phải cùng nhau giải quyết nhằm đàm bảo ổn
định thị trường và quyền lợi chính đáng của người nuôi.
Chính sách bình ổn giá thức ăn chăn nuôi hiện nay
chưa phát huy hiệu quả vì theo Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam hiện chỉ có
10/130 nhà máy sản xuất thức ăn nằm trong danh sách những nhà máy có nhiệm vụ
bình ổn giá thức ăn.
Thực tế các nhà máy nằm trong danh sách bình ổn
giá được tăng giá mỗi lần không quá 4% giá trị sản phẩm, nhưng do giá nguyên
liệu tăng cao, tỷ giá và lãi suất ngân hàng tăng cao nên bắt buộc các doanh
nghiệp tăng giá thức ăn cao hơn nhiều so với mức quy định.
Theo đại diện của Tổng cục Thủy sản, để bình ổn
được giá cả thức ăn, nguyên liệu sản xuất thức ăn cùng với việc giảm thuế nhập
khẩu phải đưa tất cả các nhà máy sản xuất thức ăn vào diện bình ổn giá. Nhà
nước cần đưa thức ăn chăn nuôi là mặt hàng thiết yếu an ninh thực phẩm, để được
hưởng mọi quyền lợi ưu tiên như lương thực và phân bón trong 10 mặt hàng thiết
yếu mà Bộ Công Thương quy định.
Ngoài ra, việc tổ chức, quản lý mạng lưới đại lý
phân phối thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản của các công ty sản xuất thức ăn còn
chưa hợp lý; tỷ lệ hoa hồng chi cho các đại lý chiếm từ 15 – 18% dẫn đến người
nuôi phải chịu thêm chi phí trung gian.
Thị trường nhập khẩu TĂGS và nguyên liệu tháng
11, 11 tháng năm 2011
ĐVT:
USD
Thị
trường
|
KNNK
T11/2011
|
KNNK
11T2011
|
KNNK
11T/2010
|
%
tăng giảm KN so T10/2011
|
%
tăng giảm KN so T10/2010
|
%
tăng giảm KN so cùng kỳ
|
Tổng KN
|
235.618.649
|
2.079.518.877
|
1.990.331.543
|
51,50
|
25,00
|
4,48
|
Achentina
|
105.885.540
|
537.838.762
|
473.914.467
|
*
|
410,90
|
13,49
|
Ấn độ
|
33.267.574
|
432.100.948
|
361.980.851
|
140,40
|
-33,85
|
19,37
|
Hoa Kỳ
|
23.115.806
|
217.323.479
|
337.875.633
|
30,73
|
91,62
|
-35,68
|
Trung Quốc
|
12.283.485
|
95.936.047
|
84.919.291
|
37,50
|
45,19
|
12,97
|
Thái Lan
|
4.586.400
|
90.452.975
|
79.230.127
|
-6,35
|
-12,97
|
14,16
|
Italia
|
11.566.622
|
71.787.386
|
36.603.982
|
-12,17
|
302,91
|
96,12
|
Indonesia
|
8.469.950
|
55.914.555
|
46.963.399
|
269,44
|
106,40
|
19,06
|
Đài Loan
|
2.447.656
|
36.285.695
|
34.008.381
|
-19,84
|
0,96
|
6,70
|
Tiểu Vương quốc Ạâp Thống nhất
|
4.997.721
|
27.941.053
|
33.777.025
|
67,32
|
218,95
|
-17,28
|
Xingapo
|
3.055.077
|
22.466.161
|
13.132.595
|
90,65
|
54,60
|
71,07
|
Malaixia
|
1.775.867
|
21.158.498
|
12.992.721
|
3,30
|
66,92
|
62,85
|
Pháp
|
1.716.437
|
17.565.661
|
13.887.798
|
7,18
|
46,92
|
26,48
|
Hàn Quốc
|
1.199.687
|
16.712.632
|
18.121.945
|
6,09
|
-44,46
|
-7,78
|
Philipin
|
864.937
|
16.642.424
|
15.891.741
|
-38,46
|
-55,63
|
4,72
|
Canada
|
80.246
|
15.810.037
|
16.914.733
|
*
|
-91,22
|
-6,53
|
Oxtrâylia
|
544.211
|
15.187.756
|
13.920.998
|
-29,52
|
15,86
|
9,10
|
HàLan
|
1.335.861
|
9.933.721
|
5.679.520
|
44,04
|
191,99
|
74,90
|
Bỉ
|
1.342.970
|
6.657.674
|
5.785.340
|
76,91
|
65,68
|
15,08
|
Tây Ban Nha
|
498.517
|
4.597.417
|
4.427.279
|
78,11
|
29,95
|
3,84
|
Áo
|
248.388
|
3.504.951
|
2.457.591
|
-17,94
|
1,68
|
42,62
|
Chilê
|
79.200
|
3.189.686
|
18.881.302
|
*
|
-86,46
|
-83,11
|
Anh
|
581.165
|
2.984.624
|
2.723.071
|
701,72
|
201,58
|
9,61
|
Đức
|
207.474
|
2.963.066
|
1.288.734
|
-15,91
|
-29,98
|
129,92
|
Nhật Bản
|
248.487
|
1.709.917
|
4.258.172
|
175,95
|
135,96
|
-59,84
|
Theo Vinanet
|