Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 11 tháng
qua, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: gạo, cà phê, thủy sản, cao su, dệt
may… vẫn phát huy cao ưu thế trên trường quốc tế với tổng kim ngạch xuất khẩu
tăng cao so với cùng kỳ năm 2010. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt
183,53 tỷ USD, tăng 30,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trị giá hàng hoá
xuất khẩu đạt 87,36 tỷ USD, tăng 35% và thực hiện vượt 10% mức kế hoạch năm;
trị giá nhập khẩu là 96,17 tỷ USD, tăng 26,5% và vượt 2,9% kế hoạch năm.
Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
Hàng thủy sản: Tổng kim
ngạch xuất khẩu trong 11 tháng năm 2011 đạt 5,53 tỷ USD, tăng 22,8% so với cùng
kỳ năm 2010. Trong đó, xuất sang EU đạt 1,26 tỷ USD, tăng 16,3%;
Hoa Kỳ đạt 1,05 tỷ USD, tăng 21,5%; Nhật Bản đạt 916 triệu USD, tăng 13,2% và
Hàn Quốc đạt 446 triệu USD, tăng 32,3%. Bên cạnh đó, xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam cũng tăng mạnh sang ASEAN, với kim ngạch 287 triệu USD (tăng 49%) và đặc
biệt xuất khẩu sang thị trường Brazil tăng 161% (đạt 75,9 triệu
USD) .
Cao su: Tính đến hết
tháng 11-2011, tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 716 nghìn tấn,
tăng 5,1%, trị giá đạt 2,89 tỷ USD, tăng 45% so với cùng kỳ năm 2010. Đơn giá
bình quân xuất khẩu nhóm hàng này 11 tháng năm 2011 tăng 38% so với cùng kỳ năm
2010 và tính riêng yếu tố giá tăng đã làm cho kim ngạch xuất khẩu cao su tăng
thêm 795 triệu USD, bằng 89% mức tăng kim ngạch của nhóm hàng này.
Gạo:Tính đến hết
tháng 11-2011, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là 6,8 triệu tấn, tăng 6,3% so
với cùng kỳ năm trước và trị giá đạt 3,46 tỷ USD, tăng 15,9%.
Trong 11 tháng qua, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Indonesia đạt 1,73 triệu tấn, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2010
và chiếm 25,4% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu sang thị trường
Philippines 972 nghìn tấn, giảm 34%; sang Malaysia 464 nghìn tấn, tăng 30,6%;
sang Xênêgan 408 nghìn tấn, tăng 137%... so với 11 tháng năm 2010.
Cà phê:Tính đến hết 11
tháng năm 2011, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt gần 1,1 triệu tấn, trị
giá đạt 2,43 tỷ USD, tăng 4,4% về lượng và tăng 55,5% về trị giá so với 11
tháng năm 2010.
Xuất khẩu cà phê của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
FDI 11 tháng năm 2011 đạt 348 nghìn tấn, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm 2010. Tỷ
trọng xuất khẩu cà phê của doanh nghiệp FDI ngày càng cao, cụ thể tỷ trọng bình
quân giai đoạn 2006-2009 là 19,7%, đến năm 2010 con số này lên tới 28,6% và 11
tháng năm 2011 chiếm 31,6% trong tổng lượng xuất khẩu cà phê của cả nước.
Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của nước ta trong 11
tháng qua là EU 431 nghìn tấn, tăng 2,4% và chiếm 49,2% tổng lượng xuất khẩu
nhóm hàng này của cả nước; tiếp theo là Hoa Kỳ 115 nghìn tấn, giảm 14,3%; Nhật
Bản 44,9 nghìn tấn, giảm 10%... so với 11 tháng năm 2010.
Dầu thô: Tính đến
hết tháng 11-2011, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 7,68 triệu tấn, tăng
5,8% và kim ngạch đạt 6,76 tỷ USD, tăng 51,7% so với cùng kỳ năm 2010 (tương
ứng tăng 2,3 tỷ USD), trong đó phần trị giá tăng do yếu tố giá tăng là 2,04 tỷ
USD và do yếu tố lượng tăng là 260 triệu USD.
Than đá:Tính đến hết
tháng 11-2011, lượng xuất khẩu than đá của cả nước đạt 15,5 triệu tấn, giảm 10%
so với cùng kỳ năm 2010 và trị giá là 1,5 tỷ USD, tăng 7,4%.
Hàng dệt may: Tổng trị giá
xuất khẩu nhóm hàng này trong 11 tháng năm 2011 lên 12,78 tỷ USD, tăng 27,5% so
với cùng kỳ năm 2010. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị
trường Hoa Kỳ đạt 6,28 tỷ USD, tăng 13,6%; sang EU đạt 2,23 tỷ USD, tăng 38,3%;
sang Nhật Bản đạt 1,54 tỷ USD, tăng 48,5% và sang Hàn Quốc: 822 triệu USD, tăng
116% so với 11 tháng năm 2010.
Giày dép các loại: Tháng 11-2011, xuất khẩu nhóm hàng này vượt ngưỡng 650
triệu USD, tăng 19,8% so với tháng 10, nâng tổng trị giá xuất khẩu giày dép 11
tháng lên 5,84 tỷ USD, tăng 28,1% so với cùng kỳ năm 2010 và vượt 0,7% so với
kế hoạch năm.
Điện thoại các loại & linh kiện: Tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 11 tháng lên 6,06
tỷ USD, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm trước.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng: Tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 11 tháng đạt 3,68
tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm 2010.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Tổng trị giá xuất
khẩu trong 11 tháng nhóm hàng này đạt 3,75 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ
năm trước.
Sản phẩm từ sắt thép: Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 11 đạt 115
triệu USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm từ sắt thép 11 tháng năm 2011
lên 1,03 tỷ USD, tăng 103,1% so với 11 tháng năm 2010.
Một số nhóm hàng nhập khẩu chủ yếu
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng:Tổng kim ngạch nhập khẩu 11 tháng năm 2011 cúa nhóm
hàng này đạt 13,85 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ 2010 và là nhóm hàng dẫn
đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. Trong đó, khu vực FDI nhập
khẩu 5,98 tỷ USD, tăng 29,2% và các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu 7,88 tỷ
USD, tăng 2,6% so với 11 tháng năm 2010.
Xăng dầu các loại: Hết 11 tháng năm 2011, tổng lượng xăng dầu nhập khẩu của cả
nước là 9,95 triệu tấn, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2010 với trị giá là 9,2
tỷ USD, tăng 67,2%.
So với cùng kỳ năm trước, đơn giá nhập khẩu bình quân các mặt
hàng xăng dầu tăng rất cao từ 40% đến 49%. Giá nhập khẩu bình quân tăng cao đã
làm trị giá nhập khẩu nhóm hàng này tăng mạnh, trong tổng số gần 3,7 tỷ USD
tăng lên của xăng dầu nhập khẩu thì phần tăng do giá tăng là 2,95 tỷ USD
và phần tăng do lượng tăng là 750 triệu USD.
Điện thoại các loại và linh kiện: Kim ngạch nhóm
này trong 11 tháng năm 2011 đạt 2,3 tỷ USD, tăng mạnh 74% so với cùng kỳ
năm trước. Nhập khẩu nhóm hàng này chủ yếu từ Trung Quốc với trị giá là 1,54 tỷ
USD, tăng 63%; và Hàn Quốc với trị giá là 684 triệu USD, tăng 128%. Kim
ngạch nhập khẩu từ 2 thị trường này chiếm tới 96,7% tổng kim ngạch nhập khẩu
của cả nước.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này 11 tháng năm 2011 đạt
6,5 tỷ USD, tăng 39,4% so với cùng kỳ năm 2010. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nhập khẩu 5,2 tỷ USD, tăng 51,7% so với 11 tháng năm 2010 và
chiếm 80,1% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước; các doanh nghiệp trong nước
nhập khẩu 1,3 tỷ USD, tăng 5% so với 11 tháng năm 2010.
Nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày: Tính đến hết 11 tháng năm 2011, trị giá nhập khẩu nhóm hàng
này là 11,31 tỷ USD, tăng 35,6% so với cùng kỳ năm 2010 (cao hơn mức tăng 30,5%
của xuất khẩu sản phẩm dệt may và giày dép).
Sắt thép các loại: Tính đến hết 11 tháng năm 2011, tổng lượng nhập khẩu sắt thép
của Việt Nam là 6,6 triệu tấn, giảm 18,7% nhưng do đơn giá bình quân so với
cùng kỳ tăng cao (25,6%) nên kim ngạch là 5,75 tỷ USD, tăng 2%.
Phế liệu sắt thép: Lượng nhập khẩu phế liệu sắt thép trong 11 tháng năm 2011 đạt
2,16 triệu tấn, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 993 triệu
USD, tăng 17,9%.
Ô tô nguyên chiếc:Trong tháng 11, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là 2,7
nghìn chiếc, giảm 16,5%, trong đó ô tô dưới 9 chỗ ngồi nhập khẩu 1,62 nghìn
chiếc, giảm 11,9%; ô tô tải nhập khẩu 849 chiếc, giảm 22,7%…Tính đến hết 11
tháng năm 2011, cả nước nhập khẩu gần 51 nghìn chiếc, trong đó xe dưới 9 chỗ là
32,8 nghìn chiếc, tăng 7.9%; ô tô tải là gần 15 nghìn chiếc, tăng 18,2%; ô tô
loại khác là 3,2 nghìn chiếc, giảm 23,5% so với 11 tháng năm 2010.
Xe ôtô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ
từ Hàn Quốc với hơn 23 nghìn chiếc, giảm 7,8% so với cùng kỳ năm 2010.
Trong đó, lượng xe dưới 9 chỗ ngồi là 16,5 nghìn chiếc, giảm nhẹ 0,7% và
chiếm 71,5% lượng xe nhập khẩu từ thị trường này. Tiếp theo là thị trường Thái
Lan: 5,3 nghìn chiếc, tăng 116%; Trung Quốc: 5,1 nghìn chiếc, tăng 37,8%; Nhật
Bản: 4,4 nghìn chiếc, giảm 7,2%…so với cùng kỳ năm 2010.
Theo Vinanet