Từ
năm 2001 đến nay, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thị trường dịch vụ
Logistics Việt Nam có sự chuyển biến tích cực với số lượng các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực Logistics phát triển nhanh và có tốc độ tăng trưởng
cao.
Dịch
vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một
hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ
tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi
ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả
thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Hiện
các doanh nghiệp logistics của Việt Nam đang hoạt động khá chuyên nghiệp và
hiệu quả nhưng trên thực tế mới chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu thị trường và chỉ
dừng lại ở mức độ cung cấp các dịch vụ đơn lẻ, một số công đoạn cuả chuỗi dịch
vụ quan trọng này. Thực tế này là do các doanh nghiệp logistics của Việt Nam
chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô và năng lực còn nhiều hạn chế ,
song tính hơp tác và liên kết để tạo ra sức cạnh tranh lại còn rất yếu nên làm
cho khả năng cạnh tranh thấp.
Qua
số liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển - trường Đại học
Kinh tế quốc dân về hoạt động logistics ở 10 tỉnh, thành phố trong cả nước năm
2011 cho thấy có tới 69,28% ý kiến cho rằng các doanh nghiệp thiếu sự liên kết
hợp tác, 54,7% ý kiến cho rằng thiếu đội ngũ nhân viên có tính chuyên nghiệp và
có tới 80,26% lao động trong các doanh nghiệp logistics chỉ được đào tạo qua
công việc.
Đây
chính là những nguyên nhân cơ bản làm cho năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp logistics Việt Nam thấp thua xa so với các doanh nghiệp nước ngoài trong
tình hình hiện nay là điều dễ hiểu và các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn
đóng vai trò là “vệ tinh” cho các công ty logistics nước ngoài, chỉ đảm nhận
một số dịch vụ đơn lẻ trong hoạt động logistics như làm thủ tục Hải quan, cho
thuê phương tiện vận tải, kho bãi….Trong bối cảnh khi mà hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam ngày càng phát triển, thương mại nội địa ngày càng mở rộng
nhu cầu dịch vụ logistics càng gia tăng thì đây là vấn đề cần phải đặc biệt quan
tâm, khắc phục để hạn chế thua thiệt ngay trên “sân nhà” đối với lĩnh vực được
coi là ngành dịch vụ “cơ sở hạ tầng” của nền kinh tế, không chỉ đem lại nguồn
lợi to lớn đối với đất nước mà còn có vai trò quan trọng trong đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế hiện nay.
Với
việc các doanh nghiệp logistics nước ngoài chiếm tới 75% thị trường và các
doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng 25% nhu cầu thị trường logisitcs và chỉ
dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ cho một số công đoạn của chuỗi dịch vụ quan
trọng này với quy mô thị trường chiếm tới 25% GDP thì chắc chắn có ảnh
hưởng lớn đến ngành Logistics Việt Nam và cả nền kinh tế Việt Nam
nói chung. Lấy ví dụ về khai thác Cảng biển hiện nay, một số cảng biển ở phía
nam gần đây đua nhau hạ giá cước làm hàng chỉ ở mức 32 USD/container 20 feet và
50 USD/container 40 feet thấp hơn nhiều so với các cảng cùng chất lượng dịch vụ
trong khu vực như Thái Lan 55 USD/container 20 feet, Singapo – 117 USD/
container 40 feet…Đây là nguy cơ mất thị phần khai thác cảng biển của Việt Nam
vào tay giới đầu tư nước ngoài là rất lớn. Vì với mức giá thấp như vậy dẫn đến
thua lỗ nặng ở các cảng biển buộc phải bán giảm bớt cổ phần, khi đó nhà đầu tư
nước ngoài sẽ có cơ hội để nắm giữ cổ phần chi phối. Điều này rõ ràng là ảnh
hưởng trực tiếp đến ngành Logistics Việt Nam và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
và sự phát triển kinh tế của đất nước.
Với
việc Việt Nam thực hiện các cam kết về tự do hoá dịch vụ Logistics trong WTO và
Hội nhập ASEAN về Logistics theo lộ trình 4 bước đến năm 2014 là: (1) Tự do hoá
thương mại, dỡ bỏ rào cản thuế; (2) Tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong lĩnh vực
Logistics; (3) Nâng cao năng lực quản lý Logistics và (4) Phát triển nguồn nhân
lực. Bối cảnh đó đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho ngành Logistics ở Việt
Nam. Trước hết là cơ hội để phát triển Logistics của Việt Nam là tiếp cận được
thị trường Logistics rộng lớn hơn với những ưu đãi thương mại để thúc đẩy tiêu
thụ sản phẩm, dịch vụ; phát huy lợi thế địa lý - chính trị trong phát triển cơ
sở hạ tầng Logistics như phát triển cảng nước sâu, sân bay quốc tế, hệ thống
đường sắt xuyên Á, các trung tâm Logistics; Hội nhập Logistics tạo cơ hội cho
Việt Nam phát triển quan hệ đối tác, thị trường xuất khẩu được mở rộng, góp
phần cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng... Bên cạnh đó, trên
con đường thực hiện mục tiêu hội nhập ngành Logistics, Việt Nam cũng đang đối
mặt với nhiều thách thức như: Cơ sở hạ tầng cho hoạt động Logistics nghèo nàn
và thiếu đồng bộ, hạn chế đến sự phát triển, dẫn đến chi phí Logistics của Việt
Nam còn cao hơn nhiều so với các nước; Doanh nghiệp Logistics quy mô nhỏ, hoạt
động manh mún và thiếu tính chuyên nghiệp; Thiếu hụt nguồn nhân lực Logistics
được đào tạo bài bản và có trình độ quản lý Logistics; Môi trường pháp lý còn
nhiều bất cập, sự khác biệt về hệ thống luật pháp, thông quan hàng hoá và các
thủ tục hành chính là những thách thức đối với nước ta trong hội nhập về
Logistics.
Với
các mục tiêu đặt ra cho lĩnh vực dịch vụ Logistics đến năm 2020, như tỷ lệ thuê
ngoài dịch vụ Logistics đến năm 2020 là 40% và hình thành dịch vụ trọn gói 3PL
là những mục tiêu đầy khó khăn. Để có thể thực hiện được các mục tiêu đặt ra,
ngành Logistics Việt Nam phải thực hiện đồng thời nhiều giải pháp cả ở tầm vĩ
mô và vi mô như Xây dựng quy hoạch và chiến lược tổng thể phát triển Logistics
của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn 2030; Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với
hoạt động Logistics, phát triển khung thể chế và quản lý vĩ mô hệ thống
Logistics; Phát triển thị trường Logistics, nâng cao chất lượng và sức cạnh
tranh sản phẩm dịch vụ Logistics; Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Logistics; Phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Logistics...
Việc
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Logistics trong hoạt động kinh doanh là điều
cần thiết, nhằm thúc đẩy và tạo động lực phát triển kinh doanh. Nhưng trong
điều kiện hiện nay khi mà các doanh nghiệp trong nước mới chỉ cung ứng dịch vụ
truyền thống, đơn lẻ, chủ yếu là làm đại lý, quy mô doanh nghiệp logistics chủ
yếu là vừa và nhỏ, kinh doanh còn manh mún, lao động vừa thiếu lại vừa yếu,
chưa có sự hợp tác, liên minh liên kết để cạnh tranh với các doanh nghiệp
nước ngoài thì kinh doanh theo kiểu “chụp giật”, manh mún, cạnh tranh theo kiểu
hạ giá cước làm hàng, hạ giá thành để làm đại lý cho nước ngoài một cách không
lành mạnh là kiểu làm ăn không theo đúng quy tắc thị trường, là tiền lệ xấu tạo
cho các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh thị trường ngành logistics non trẻ
của Việt Nam.
Trong
tình hình hiện nay, để hóa giải vấn đề này, trước hết là thuộc về các doanh
nghiệp logistics của Việt Nam, cần phải có quan điểm logistics ngay từ chính
các doanh nghiệp, các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần phải làm ăn theo đúng
quy tắc của thị trường, phải liên kết hoạt động, hợp tác, thiết lập mối quan hệ
kinh tế cùng có lợi, mỗi doanh nghiệp cần tập trung thế mạnh của mình và sẽ
thuê ngoài những dịch vụ không phải thế mạnh.Sự liên kết, phối hợp hỗ trợ nhau
là điều rất cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo BaoMoi