Tổng cục Hải quan vừa công bố số liệu thống kê hàng hoá xuất nhập khẩu 10 tháng năm 2012. Theo đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 187,54 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2011. Nhóm các mặt hàng có kim ngạch xuất nhập khẩu chủ đạo vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng.
Nhóm hàng xuất khẩu chính
Hàng dệt may: xuất khẩu trong tháng 10 nhóm hàng này đạt 1,34 tỷ USD, tăng 0,7% so với tháng trước, qua đó nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng năm 2012 lên 12,49 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2011 (tương ứng tăng 899 triệu USD).
Trong 10 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 6,25 tỷ USD, tăng 8,8% (tương ứng tăng 506 triệu USD); sang EU đạt 1,98 tỷ USD, giảm 5,6%; sang Nhật Bản đạt 1,62 tỷ USD, tăng 17,5% (tương ứng tăng hơn 241 triệu USD) và sang Hàn Quốc 906 triệu USD, tăng 20,7% so với 10 tháng năm 2011.
Giày dép các loại: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 597 triệu USD, tăng 29% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 5,82 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2011.
Trong đó, xuất khẩu sang thị trường EU là 2,08 tỷ USD, tăng 2,2% và chiếm 35,7% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,82 tỷ USD, tăng 18,1%; sang Nhật Bản đạt 271 triệu USD, tăng 36,2%; sang Trung Quốc đạt 249 triệu USD, tăng 27,4%;... so với cùng kỳ năm 2011.
Điện thoại các loại và linh kiện: trị giá xuất khẩu trong tháng 10-2012 đạt 1,43 tỷ USD, tăng 17,2% so với tháng trước, qua đó nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng lên 10,06 tỷ USD (tương ứng tăng 5,28 tỷ USD), tăng gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm 2011.
Những đối tác chính nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện của Việt Nam trong 10 tháng qua là EU với 4,43 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần và chiếm 44% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là: Tiểu Vương Quốc Arập thống nhất 1,16 tỷ USD, tăng 4,8 lần; Nga 595 triệu USD, tăng 38%; Hồng Kông 428 triệu USD, tăng 9,1%... so với cùng kỳ năm 2011.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Tính đến hết tháng 10-2012, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam đạt 6,11 tỷ USD, tăng 70,5% so với cùng kỳ năm 2011 (tương đương tăng 2,53 tỷ USD về số tuyệt đối).
Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 10 tháng qua với 1,47 tỷ USD, tăng gấp hơn 1,9 lần; tiếp theo là EU 1,11 tỷ USD, tăng 78,1%; Hoa Kỳ 710 triệu USD, tăng 64,1% và Malaysia 698 triệu USD, tăng gấp 10,5 lần so với cùng kỳ năm trước.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng: Trong tháng 10-2012, xuất khẩu 454 triệu USD, nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng lên 4,61 tỷ USD, tăng 32,6% (tương ứng tăng 1,13 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2011.
Trong đó, xuất khẩu sang Nhật Bản 1,02 tỷ USD, tăng 27,9%; sang Hoa Kỳ 812 triệu USD, tăng 80%; sang EU 551 triệu USD, tăng 58%; sang Trung Quốc 286 triệu USD, tăng 22,3% và Hồng Kông 258 triệu USD, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước.
Nhóm hàng phương tiện vận tải và phụ tùng các loại: Trong tháng xuất khẩu 396 triệu USD, nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng qua lên 3,77 tỷ USD, tăng 35,8% so với 10 tháng năm 2011 (tương đương tăng 994 triệu USD).
Nhật Bản là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 10 tháng qua với 1,4 tỷ USD, tiếp theo là Hoa Kỳ 522 triệu USD và Hàn Quốc 516 triệu USD.
Gạo: Lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 10 là 657 nghìn tấn, giảm 2,5%, trị giá đạt 312 triệu USD, tăng 2,9% so với tháng trước. Như vậy, tính đến hết tháng 10-2012, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 6,9 triệu tấn, tăng 8% và trị giá đạt 3,13 tỷ USD, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 10 tháng qua, Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam với 1,84 triệu tấn, tăng gấp hơn 6 lần so với cùng kỳ năm 2011. Tiếp theo là Philippines 1,1 triệu tấn, tăng 14%; Malaysia 671 nghìn tấn, tăng 67,2%; Bờ Biển Ngà 476 nghìn tấn, tăng 69,6%; Indonesia 467 nghìn tấn, giảm 68,2% và Ghana 270 nghìn tấn, tăng gấp gần 2 lần,...
Cà phê: Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 10-2012 là 102 nghìn tấn, trị giá đạt 228 triệu USD, tăng 45,3% về lượng và tăng 43,9% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt 1,44 triệu tấn, trị giá đạt 3,07 tỷ USD, tăng 39,9% về lượng và tăng 35% về trị giá (tương ứng tăng 796 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2011.
Cao su: Tháng 10-2012, lượng cao su xuất khẩu đạt 96 nghìn tấn, trị giá đạt 259 triệu USD, giảm 11,4% về lượng và giảm 5,1% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 815 nghìn tấn, tăng 37,7% và trị giá đạt 2,31 tỷ USD, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2011 (tăng 952 triệu USD do lượng tăng và giảm 1,17 tỷ USD do giá giảm).
Trung Quốc vẫn là đối tác chính nhập khẩu cao su của Việt Nam trong 10 tháng qua với 387 nghìn tấn, tăng 9,8% và chiếm tới 47,4% lượng cao su xuất khẩu của cả nước; tiếp theo là Malaysia 160 nghìn tấn, tăng 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2011;…
Hàng thủy sản: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 603 triệu USD, cao nhất kể từ đầu năm đến nay, tăng 14,9% so với tháng trước. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng đạt 5,08 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2011.
Trong số các đối tác chính của thuỷ sản Việt Nam trong 10 tháng qua, thị trường EU có mức suy giảm khá lớn (đạt 954 triệu USD, giảm 15,9%). Bên cạnh đó, đối tác dẫn đầu về thuỷ sản của Việt Nam là Hoa Kỳ cũng chỉ tăng 6,4%, đạt 995 triệu USD; tiếp theo là Nhật Bản đạt 896 triệu USD, tăng 13,2%; sang Hàn Quốc đạt 413 triệu USD, tăng 6,7%...
Dầu thô: Trong tháng lượng xuất khẩu là 799 nghìn tấn, giảm 13,7%, trị giá là 700 triệu USD, giảm 17,2% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt 7,82 triệu tấn, tăng 13,3% và kim ngạch đạt 6,96 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước.
Dầu thô của Việt Nam trong 10 tháng qua chủ yếu được xuất khẩu sang Nhật Bản: 2,28 triệu tấn, tăng 65%; sang Australia hơn 1,35 triệu tấn, tăng 3,8%; sang Trung Quốc 1,13 triệu tấn, tăng 15,3%; sang Malaysia 0,97 triệu tấn, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2011.
Than đá: Lượng xuất khẩu trong tháng là 1,49 triệu tấn, tăng 25,3% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, lượng xuất khẩu than đá của cả nước là 11,76 triệu tấn, giảm 14,6% với trị giá là 990 triệu USD, giảm 25,1% so với cùng kỳ năm 2011.
Trung Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhất nhập khẩu than đá của Việt Nam trong 10 tháng năm 2012 với 9,1 triệu tấn, giảm 14,6% và chiếm tới hơn ¾ tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước, tiếp theo là thị trường Hàn Quốc 979 nghìn tấn, giảm 10,9% và Nhật Bản 899 nghìn tấn, giảm 30,7% so với cùng kỳ năm trước…
Gỗ và sản phẩm gỗ: Xuất khẩu trong tháng đạt 414 triệu USD, tăng 5,9% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng lên 3,78 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2011.
Trong đó, xuất sang Hoa Kỳ đạt 1,46 tỷ USD, tăng 28,4%; sang Trung Quốc 599 triệu USD, tăng 7,6%; sang Nhật Bản 543 triệu USD, tăng 14% và sang EU: 499 triệu USD, tăng 9,4%.
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện: Trong tháng xuất khẩu 183 triệu USD, giảm 3,4% so với tháng trước, nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng năm 2012 lên gần 1,28 tỷ USD, tăng165,9% so với cùng kỳ năm trước.
Hồng Kông là đối tác chính nhập khẩu máy ảnh, máy quay phim và linh kiện của Việt Nam trong 10 tháng qua với 1,17 tỷ USD, chiếm 91,4% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Một số nhóm hàng nhập khẩu chính
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: Trong tháng, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này là 1,29 tỷ USD, tăng 4,3% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 10 tháng năm 2012 lên 13,34tỷ USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ 2011 và là nhóm hàng dẫn đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. Trong đó, khu vực FDI nhập khẩu 7,09 tỷ USD, tăng 34% và các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu 6,25 tỷ USD, giảm 14,4% so với 10 tháng năm 2011.
Nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày: Tháng 10-2012, nhập khẩu nhóm hàng này là 1,16 tỷ USD, tăng 18,9% so với tháng trước. Tính đến hết 10 tháng 2012, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 10,19 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong 10 tháng năm 2012, Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ: Trung Quốc với 3,55 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2011; Hàn Quốc 1,79 tỷ USD, tăng 2,2%; Đài Loan 1,61 tỷ USD,giảm 6%; Nhật Bản 666 triệu USD, tăng 14,5%; Hoa Kỳ 355 triệu USD, giảm 45,6%;…
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Trong tháng 10-2012, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,39 tỷ USD, tăng 16,4% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng năm 2012 lên 10,68 tỷ USD, tăng 77,4% so với cùng kỳ năm 2011; trong đó nhập khẩu của khu vực FDI là 9,47 tỷ USD, tăng gấp gần 2 lần và nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước là 1,2 tỷ USD, tăng 4,2%.
Điện thoại các loại và linh kiện: Kim ngạch nhập khẩu trong tháng đạt 522 triệu USD, tăng 20% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, cả nước nhập khẩu 3,97 tỷ USD, tăng 91,4% so với 10 tháng năm 2011.
Ô tô nguyên chiếc: Lượng nhập khẩu ô tô nguyên chiếc các loại trong tháng 10-2012 là 1,81 nghìn chiếc, giảm 8,6% so với tháng trước với trị giá nhập khẩu là 38,3 triệu USD, giảm 38,2%. Tính đến hết tháng 10-2012, tổng lượng ô tô nguyên chiếc nhập về là 21,62 nghìn chiếc, giảm 55,2% với trị giá là 487 triệu USD, giảm 46,2% so với cùng kỳ năm 2011.
Lượng nhập khẩu xe dưới 9 chỗ trong tháng 10-2012 vẫn tiếp tục chững lại ở mức dưới 1.000 chiếc. Tính đến hết 10 tháng năm 2012, lượng nhập khẩu xe dưới 9 chỗ đạt 10,7 nghìn chiếc, trị giá là 114 triệu USD, giảm 65,8% về lượng và giảm 70,6% về trị giá so với 10 tháng/2011.
Trong 10 tháng năm 2012, Hàn Quốc tiếp tục là thị trường chính cung cấp ô tô nguyên chiếc sang Việt Nam với 8,6 nghìn chiếc, giảm 60%. Tiếp theo là Thái Lan: 4,1 nghìn chiếc, giảm 22,5%; Trung Quốc: 3,3 nghìn chiếc, giảm 29,6%; Ấn Độ: 1,1 nghìn chiếc, giảm 49,6%;… so với cùng kỳ năm 2011.
Xăng dầu các loại: Tính đến hết tháng 10-2012, tổng lượng xăng dầu nhập khẩu của cả nước là 7,94 triệu tấn, giảm 13,7% so với cùng kỳ năm 2011 với trị giá là 7,77 tỷ USD, giảm 8,3%. Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 10 tháng qua chủ yếu có xuất xứ từ: Singapore với 3,36 triệu tấn, giảm 15,2%; tiếp theo là Đài Loan (Trung Quốc) 1,1 triệu tấn, giảm 5,4%; Trung Quốc hơn 1 triệu tấn, tăng 2,4%; Hàn Quốc 842 nghìn tấn, giảm 6,2%;… so với 10 tháng năm 2011.
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm: Nếu như 10 tháng năm 2011 Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng này đạt mức kỷ lục với 2,42 tỷ USD thì tính đến hết tháng 10-2012 chỉ là 270 triệu USD, giảm 87,8% (tương đương giảm 1,94 tỷ USD về số tuyệt đối). Trong đó, giảm nhiều nhất ở các thị trường: Thụy Sĩ giảm 1,47 tỷ USD, Australia giảm 364 triệu USD, Hồng Kông giảm 52,5 triệu USD,…
Sắt thép các loại: Tính đến hết tháng 10-2012, tổng lượng nhập khẩu sắt thép của Việt Nam là 6,32 triệu tấn, tăng 4,5%, kim ngạch nhập khẩu là hơn 5 tỷ USD, giảm 4,8%. Trong đó, lượng phôi thép nhập khẩu là 378 nghìn tấn, trị giá đạt 241 triệu USD, giảm 49% về lượng và giảm 50,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2011.
Phế liệu sắt thép: Trong 10 tháng qua, cả nước nhập khẩu gần 1,22 tỷ USD phế liệu sắt thép, tăng 34,7% với lượng nhập khẩu tương ứng đạt 2,76 triệu tấn, tăng 40,2% so với 10 tháng năm 2011.
Các thị trường chính cung cấp phế liệu sắt thép cho Việt Nam như: Australia 448 nghìn tấn, tăng gấp hơn 2 lần; Hoa Kỳ 383 nghìn tấn, giảm 11,4%; Nhật Bản 177 nghìn tấn, tăng gấp gần 6 lần; Chi Lê 110 nghìn tấn, tăng 15,8%;… so với cùng kỳ năm 2011.
Kim loại thường khác: Tính đến hết tháng 10-2012, tổng lượng nhập khẩu kim loại thường khác của Việt Nam là 568 nghìn tấn, tăng 5,0%, kim ngạch là 2,13tỷ USD, giảm 6,5%.
Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng qua chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn Quốc 116nghìn tấn, tăng 13,7%; Trung Quốc 90 nghìn tấn, tăng 29,8%; Đài Loan 56,7 nghìn tấn, giảm 13,6%; Australia 47,9 nghìn tấn, tăng 1,2%; …
Phân bón các loại: Tính đến hết tháng 10-2012, lượng nhập khẩu phân bón của cả nước là 3,2 triệu tấn, trị giá là 1,37 tỷ USD, giảm 8,5% về lượng và giảm 5,2% về trị giá so với 10 tháng năm 2011.
Chất dẻo nguyên liệu: Lượng nhập khẩu trong tháng 10-2012 là 228 nghìn tấn, trị giá 409 triệu USD, tăng 2,3% về lượng và tăng 6,2% về trị giá so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của Việt Nam là 2,3 triệu tấn, tăng 9,5%, kim ngạch nhập khẩu là 3,97 tỷ USD, tăng 2%.
Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng 10-2012, cả nước nhập khẩu 234 triệu USD nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu, giảm 10% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10-2012, tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước là 1,97 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2011.
Theo Vinanet