Từ 5 năm nay, thủy sản luôn là một trong năm mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam tại thị trường châu Phi.
Năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu nhóm hàng này sang 25 nước châu Phi với kim ngạch đạt gần 150 triệu USD, tăng 38% so với năm 2011. Trong quý 1 năm 2013, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản sang châu Phi đạt 30,3 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhu cầu nhập khẩu thủy hải sản của các quốc gia châu Phi
Theo số liệu của WTO, năm 2011, tổng kim ngạch nhập khẩu thủy hải sản của toàn bộ 54 quốc gia châu Phi là 3,66 tỷ USD. Các sản phẩm nhập khẩu gồm cá, các loài giáp xác và nhuyễn thể dưới dạng tươi, đông lạnh, hun khói, sấy và chế biến sâu.
Ai Cập: Nhu cầu tiêu thụ cá của Ai Cập trong những năm gần đây khoảng 2 triệu tấn/năm, trong đó nhập khẩu khoảng 330.000 tấn với kim ngạch khoảng 550 triệu USD. Ai Cập là thị trường xuất khẩu hải sản lớn nhất của Việt Nam tại châu Phi.
Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã tăng liên tục, đạt 79,6 triệu USD năm 2012, tăng 33% so với năm 2011 (chủ yếu là cá basa và tôm). Cá là một trong những món ăn truyền thống của người Ai Cập trong những ngày lễ tết. Người Ai Cập rất ưa chuộng và coi đây là một món ăn thánh thiện và mang lại may mắn.
Các loại cá nhập khẩu chủ yếu gồm: cá thu – mackerel (180.000 tấn), sardines (50.000 tấn), cá trích – herring (40.000 tấn), cá bống bạc (25.000 tấn), cá tuyết (15.000 tấn), cá basa (12.000 tấn). Dự báo nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng 10 – 12 % mỗi năm trong vòng 5 năm tới do dân số tăng, các nhà máy chế biến cá hộp tiếp tục được xây dựng và lượng khách du lịch nước ngoài đến Ai Cập tăng nhanh.
Ni-giê-ria: Theo số liệu của Cục thống kê Nigeria, hàng năm, nhu cầu tiêu thụ cá của nước này vào khoảng 1,4 triệu tấn trong khi đó sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 50%. Việc thu nhập bình quân đầu người của Nigeria tăng trong thời gian qua khiến cho sức mua tại thị trường này cũng tăng mạnh.
Năm 2011, kim ngạch nhập khẩu thủy hải sản của Nigeria đạt mức cao kỷ lục 1,9 tỷ USD. Các loại cá nhập khẩu chính gồm cá thu, cá sardine, cá merlu, cá trích, cá tuyết, cá da trơn, tôm... dưới dạng đông lạnh hoặc xấy khô, hun khói.
Mauritius: Mặc dù là một quốc đảo song nước này cũng nhập khẩu nhiều thủy hải sản để tái xuất sang các nước châu Phi khác. Năm 2011, tổng kim ngạch nhập khẩu cá, các loại nhuyễn thể và giáp xác của Mauritius đạt 363 triệu USD.
Bờ Biển Ngà: Năm 2011, tổng kim ngạch nhập khẩu thủy hải sản của nước này vào khoảng 330 triệu USD. Cùng với gạo, cá là thức ăn hàng ngày không thể thiếu của người dân.
Ghana: Cũng là thị trường nhập khẩu nhiều thủy hải sản tại châu Phi với tổng kim ngạch đạt 240 triệu USD năm 2011. Các mặt hàng nhập khẩu gồm cá filet đông lạnh, hun khói, sấy; nhuyễn thể và các loại giáp xác. Hàng thủy sản Việt Nam mới bắt đầu thâm nhập thị trường này từ hai năm trở lại đây với kim ngạch còn khiêm tốn.
Nam Phi: Theo số liệu Bộ Công Thương Nam Phi, trung bình mỗi năm, Nam Phi nhập khẩu khoảng 200.000 tấn thuỷ hải sản với kim ngạch khoảng 110 triệu USD. Các loại cá nhập khẩu chính gồm cá hồi, cá lưỡi trâu, cá bơn, cá ngừ, tôm, v.v...
Tuy-ni-di: Kim ngạch nhập khẩu thủy hải sản trong đó có cá da trơn và tôm đông lạnh đạt 66 triệu USD năm 2011. Ngoài phục vụ tiêu dùng trong nước, Tuy-ni-di còn là điểm trung chuyển nhóm hàng này sang nước láng giềng Libi (quốc gia có hoạt động XNK vẫn bị ảnh hưởng bởi cuộc nội chiến và cấm vận).
An-giê-ri: Năm 2011, kim ngạch nhập khẩu hàng thủy hải sản của An-giê-ri đạt 50 triệu USD. Xu hướng tiêu thụ mặt hàng này đang ngày càng tăng cùng với mức thu nhập của người dân được cải thiện (nhờ giá xuất khẩu dầu lửa tăng).
Tình hình xuất khẩu thủy hải sản của Việt Nam sang châu Phi
Các nước châu Phi nhập khẩu nhiều thủy sản của Việt Nam nhất năm 2012 gồm Ai Cập (79,6 triệu USD), Tuy-ni-di (11,16 triệu USD), Nigeria (11 triệu USD), An-giê-ri (9,5 triệu USD), Cameroon (7,1 triệu USD), Libi (6,5 triệu USD), Ma-rốc (4,2 triệu USD), Nam Phi (3,7 triệu USD), Kenya (2,8 triệu USD), Mauritius (2,4 triệu USD), Sudan (2,2 triệu USD), Congo (2 triệu USD), v.v... Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này chủ yếu gồm cá tra, cá basa, tôm đông lạnh, tôm nõn và cá ngừ.
Các nước như An-giê-ri, Ma-rốc, Nigeria, Nam Phi... chủ yếu nhập khẩu cá tra phi-lê đông lạnh. Mặt hàng tôm cũng đã có mặt tại thị trường châu Phi nhưng với số lượng và giá trị còn nhỏ bé.
Những thuận lợi
Tại hầu hết các quốc gia khu vực châu Phi, ngành nuôi trồng thuỷ sản, nhất là cá nước ngọt không phát triển do đó phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước. Số lượng người nước ngoài (chủ yếu là châu Âu, châu Mỹ) đến làm việc cũng như du lịch ngày càng đông cũng góp phần tăng cầu thủy sản.
Mặt khác, cá da trơn ngày càng được ưa chuộng do được đánh giá có chứa ít cholesteron. Thu nhập của nhiều quốc gia xuất khẩu dầu lửa, khoáng sản như Nigeria, An-giê-ri, Libi... được cải thiện do giá thế giới tăng cao cũng góp phần làm tăng nhu cầu nhập khẩu nhóm hàng thực phẩm trong đó có thủy hải sản.
Hiện nay, xu hướng dùng hàng thủy sản thay thế cho thịt trong bữa ăn của người dân châu Phi đang mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này, thậm chí doanh nghiệp có thể nghiên cứu phương án nuôi trồng thủy sản tại nước sở tại phục vụ nhu cầu địa phương và xuất khẩu sang các nước lân cận.
Trong khi đó nguồn cung cá tra, ba sa, tôm sú trong nước dồi dào với mức giá ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang khu vực này. Thực tế cho thấy kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng như cá basa, tôm sang thị trường khu vực đã không ngừng tăng trong những năm qua.
Những khó khăn khi xuất khẩu thủy sản sang châu Phi
Trở ngại đầu tiên là do giao thông không thuận lợi, vận chuyển bằng đường biển mất khoảng 40 ngày, thiếu các đường bay trực tiếp nên việc xuất khẩu hàng thủy sản tươi sống gặp nhiều khó khăn.
Nhiều quốc gia châu Phi có bờ biển dài, có lợi thế nguồn cung hải sản tại chỗ lớn nên nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản đóng hộp và đông lạnh không cao. Người dân tại nhiều nước đạo Hồi như Maroc, An-giê-ri, Tuy-ni-di... có truyền thống ăn thịt và ít có thói quen tiêu thụ thuỷ sản, nhất là cá da trơn. Vì vậy, mặc dù có tiềm năng phát triển nhưng dung lượng thị trường thuỷ sản tại khu vực này nhìn chung không lớn và việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có thời gian tuyên truyền, quảng bá.
Khả năng thanh toán của phần lớn các doanh nghiệp nhập khẩu châu Phi thấp và đôi khi vẫn xảy ra tình trạng lừa đảo thương mại qua mạng internet ở một số quốc gia Tây Phi dẫn đến tâm lý lo ngại khi doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường này.
Các quốc gia như Marocco, Ai Cập, An-giê-ri, Nigeria... áp dụng mức thuế nhập khẩu cao, đòi hỏi một số giấy tờ thủ tục như xác nhận lãnh sự (Ai Cập), giấy chứng nhận của Tổ chức tiêu chuẩn Nigeria (SONCAP) đối với các loại thủy sản nhập khẩu.
Một số doanh nghiệp Việt Nam không nghiêm túc trong việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu như giao hàng kém chất lượng, làm mất uy tín với khách hàng. Tình trạng giảm giá để tranh giành khách hàng vẫn diễn ra, gây tâm lý lo ngại, tạo áp lực giảm giá mạnh, gây tổn thất cho doanh nghiệp Việt Nam. Có những lô hàng đến cảng, bên nhập khẩu ép doanh nghiệp Việt Nam giảm đến gần nửa giá chào bán ban đầu trong hợp đồng đã ký, v.v... Trường hợp này đã từng xảy ra khi kinh doanh với khách hàng Ai Cập.
Đối với hợp đồng thương mại, các điều khoản trong hợp đồng do phía Việt Nam soạn thảo thường rất sơ sài, không nêu rõ trách nhiệm của mỗi bên khi ký kết nên dễ bị đối tác gây khó khăn khi có tranh chấp xảy ra.
Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang châu Phi
Khi kinh doanh mặt hàng thủy sản vào khu vực thị trường châu Phi, doanh nghiệp cần lưu ý một số điểm sau:
- Tích cực tham gia các đoàn khảo sát thị trường, xúc tiến thương mại, các hội chợ triển lãm quốc tế chuyên ngành, các hội thảo, diễn đàn doanh nghiệp do các cơ quan xúc tiến thương mại trong nước tổ chức để tìm được những đối tác tin cậy. Tranh thủ các sự kiện thương mại để giới thiệu mặt hàng thủy sản.
- Chủ động liên hệ với các Thương vụ Việt Nam ở châu Phi như An-giê-ri, Ai Cập, Ma-rốc, Nam Phi, Ni-giê-ria để tìm hiểu thông tin thị trường và đối tác nhập khẩu. Hạn chế việc tìm kiếm và giao dịch với khách hàng chưa quen biết qua mạng internet.
- Có sự liên kết, thống nhất về giá để xây dựng mạng lưới phân phối tại một số thị trường trọng điểm, tránh tình trạng giảm giá bán để giành khách hàng.
- Đảm bảo chất lượng hàng hóa xuất khẩu luôn ổn định để giữ chữ tín với khách hàng và tránh được những khó khăn khi cơ quan chức năng của nước sở tại kiểm tra tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Khi đàm phán và ký kết hợp đồng với đối tác châu Phi các doanh nghiệp nên lựa chọn những phương thức giao hàng, thanh toán hợp lý để tránh trường hợp nhà nhập khẩu không nhận hàng, ép giảm giá. Hợp đồng phải quy định rõ cơ quan giải quyết tranh chấp (trọng tài hay tòa án) để làm cơ sở cho việc giải quyết khi tranh chấp phát sinh.
- Xem xét kết hợp xuất khẩu thuỷ sản với nhập khẩu hải sản nguyên liệu từ các nước có tiềm năng biển như Nam Phi, Mozambique, Ghana, Mauritius, Tanzania, Maroc, Uganda để phục vụ nhu cầu chế biến xuất khẩu. Trên thực tế, năm 2012, Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 4 triệu USD nhóm hàng này từ châu Phi.
Theo Báo Công Thương Điện Tử