Hàng thủy sản: Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng đạt 7,22 tỷ USD, tăng 19,3% (tương ứng tăng 1,17 tỷ USD về số tuyệt đối) so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 3 năm trở lại đây (11 tháng năm 2012 tăng 1,4% và 11 tháng năm 2013 tăng 8%).
Các thị trường chính của thuỷ sản Việt Nam trong 11 tháng qua đã có tốc độ tăng khá cao, trong đó, sang Hoa Kỳ đạt 1,57 tỷ USD, tăng 18,8%; sang EU đạt 1,29 tỷ USD, tăng 23,7%; sang Hàn Quốc đạt 599 triệu USD, tăng 34,6%. Riêng thị trường Nhật Bản đạt 1,1 tỷ USD, có mức tăng thấp hơn là 9%.
Hàng rau quả: Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 11 tháng là 1,36 tỷ USD, tăng 40,3% (tương ứng tăng 390 triệu USD).
Hàng rau quả của Việt Nam xuất chủ yếu sang Trung Quốc với 359 triệu USD, tăng 34,1% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 37% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Cà phê: Tính đến hết tháng 11-2014, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt 1,57 triệu tấn và trị giá đạt 3,28 tỷ USD, tăng 34,4% về lượng và tăng 33,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2013 (tương ứng tăng 819 triệu USD, trong đó phần trị giá tăng do lượng tăng là 847 triệu USD nhưng phần trị giá giảm do giá giảm là 28 triệu USD).
Các thị trường nhập khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam trong 11 tháng năm 2014 bao gồm: EU đạt 685 nghìn tấn, trị giá hơn 1,39 tỷ USD, tăng 38% về lượng và 38,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 42,5% lượng cà phê xuất khẩu của cả nước; thị trường Hoa Kỳ đạt gần 154 nghìn tấn, trị giá 335 nghìn USD, tăng 22% về lượng và 23,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 10,2% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cà phê của cả nước...
Gạo: Đến hết tháng 11-2014, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 6,06 triệu tấn, giảm 2,3% và trị giá đạt 2,81 tỷ USD, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 11 tháng qua với 1,93 triệu tấn, giảm 5,3%. Bên cạnh đó, lượng gạo xuất sang Philippin trong 11 tháng năm 2014 tăng rất cao, gấp gần 4 lần so với 11 tháng năm 2013 và đạt 1,33 triệu tấn. Tính chung, lượng gạo xuất sang 2 thị trường này đạt 3,26 triệu tấn, chiếm 54% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước.
Cao su: Tính đến hết tháng 11-2014, lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước đạt 948 nghìn tấn, giảm 0,2% và trị giá đạt 1,61 tỷ USD, giảm 27,5% so với cùng kỳ năm 2013 (tương ứng giảm 608 triệu USD, trong đó do giá giảm là 604 triệu USD và do lượng giảm là 4 triệu USD).
Trung Quốc vẫn là đối tác chính nhập khẩu cao su của Việt Nam trong 11 tháng qua với 415 nghìn tấn, giảm 5% và chiếm tới 44% lượng cao su xuất khẩu của cả nước; tiếp theo là Malaysia 183 nghìn tấn, giảm 7,8% so với cùng kỳ năm 2013…
Than đá: Đến hết tháng 11-2014, lượng xuất khẩu than đá của cả nước là 6,67 triệu tấn, giảm 41,4% với trị giá là 502 triệu USD, giảm 38,4% so với cùng kỳ năm trước.
Trung Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhất nhập khẩu than đá của Việt Nam, chiếm 60% tổng lượng than đá xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên trong 11 tháng qua, xuất khẩu than đá sang thị trường này chỉ đạt 3,99 triệu tấn, giảm hơn %so với 11 tháng năm 2013.
Xăng dầu các loại: Tính đến hết tháng 11-2014, lượng xuất khẩu nhóm hàng này là 918 nghìn tấn, giảm 24,3% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá xuất khẩu xăng dầu các loại là 864 triệu USD, giảm 23,4% (tuơng ứng giảm 264 triệu USD). Campuchia là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu nhóm hàng này với 476 nghìn tấn, giảm 25,5% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 52% tổng lượng xăng dầu xuất khẩu của cả nước.
Dầu thô: Tính đến hết tháng 11-2014, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt 8,31 triệu tấn, tăng 7,4% và kim ngạch đạt 6,75 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước.
Đơn giá bình quân xuất khẩu dầu thô tháng 11 là 619 USD/tấn (tương ứng khoảng 81 USD/thùng) giảm 8,2% so với tháng trước và đây là mức giá thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Tính chung, 11 tháng năm 2014, đơn giá bình quân xuất khẩu dầu thô vẫn là 812 USD/tấn (tương ứng 106 USD/thùng), giảm 5,5% so với 11 tháng năm 2013.
Hàng dệt may: Tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 11 tháng năm 2014 là 18,97 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2013 (tương ứng tăng 2,74 tỷ USD).
Trong 11 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 8,86 tỷ USD, tăng 14,1%; sang EU đạt gần 3 tỷ USD, tăng 23%; sang Nhật Bản đạt 2,38 tỷ USD, tăng 9,4% và sang Hàn Quốc đạt 1,96 tỷ USD, tăng 30,2%so với cùng kỳ năm trước.
Giày dép các loại: Tính đến hết tháng 11-2014, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 9,25 tỷ USD, tăng 23,7% (tương ứng tăng 1,77 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường EU đạt 3,24 tỷ USD, tăng 24,7%; Hoa Kỳ đạt 2,97 tỷ USD, tăng 26,3%; sang Nhật Bản đạt 471 triệu USD, tăng 35%; sang Trung Quốc đạt 469 triệu USD, tăng 43,8% so với cùng kỳ năm trước.
Điện thoại các loại và linh kiện: Tính đến hết tháng 11-2014, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 21,98 tỷ USD, tăng 9,8% (tương ứng tăng 1,97 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2013.
Những đối tác chính nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện của Việt Nam trong 11 tháng qua là EU với 7,96 tỷ USD, tăng 2,9% và chiếm 36% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là: Tiểu Vương Quốc Ảrập thống nhất 3,39 tỷ USD, tăng 4,4%; Hoa Kỳ 1,39 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần; Ấn Độ 829 triệu USD, giảm 4,8%; Hồng Kông 749 triệu USD, giảm 0,4%; Nga 613 triệu USD, giảm 19,2% so với cùng kỳ năm 2013…
Theo báo Hải Quan.