Số liệu từ TCHQ Việt Nam cho biết, tháng 2/2013 các doanh nghiệp khai khoáng đã xuất khẩu 139,1 nghìn tấn quặng và khoáng sản, trị giá 14,9 triệu USD, tăng 119,1% về lượng và 39,6% về trị giá so với tháng đầu năm 2013, nâng lượng xuất khẩu mặt hàng này hai tháng đầu năm lên 202,7 nghìn tấn, trị giá 25,6 triệu USD, tăng 98,1% về lượng và tăng 3,34% về trị giá so với cùng kỳ năm 2012.
Nhìn chung, 2 tháng đầu năm lượng xuất khẩu quặng và khoáng sản đều tăng trưởng ở hầu khắp các thị trường, trong đó Trung Quốc – thị trường chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 73%, tương đương với 149,8 nghìn tấn, trị giá 15,4 triệu USD. Thứ hai là thị trường Nhật Bản với 4,3 nghìn tấn, trị giá trên 2 triệuUSSD, tăng 7,75% về lượng nhưng giảm 0,61% về trị giá so với 2 tháng 2012.
Ngoài hai thị trường chính kể trên, ta còn xuất khẩu sang các thị trường khác nữa như Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Ấn Độ với lượng lần lượt đạt 3,8 nghìn tấn; 2,5 nghìn tấn; 792 tấn và 100 tấn.
Đáng chú ý, xuất khẩu quặng và khoáng sản sang thị trường Indonesia 2 tháng đầu năm tuy chỉ đạt 2,5 nghìn tấn, nhưng lại là thị trường có tăng trưởng vượt bậc so với cùng kỳ, tăng 10124%.
Thị trường xuất khẩu quặng & khoáng sản 2 tháng 2013
ĐVT: lượng (tấn); Trị giá: (USD)
|
KNXK 2T/2013 |
KNXK 2T/2012 |
% so sánh |
|
lượng |
trị giá |
lượng |
trị giá |
lượng |
trị giá |
Tổng KN |
202.704 |
25.658.217 |
102.373 |
24.829.640 |
98,01 |
3,34 |
Trung Quốc |
149.870 |
15.482.772 |
|
|
* |
* |
Nhật Bản |
4.340 |
2.061.030 |
4.028 |
2.073.780 |
7,75 |
-0,61 |
Malaysia |
3.815 |
1.227.416 |
|
|
* |
* |
Indonesia |
2.556 |
628.660 |
25 |
68.750 |
10.124,00 |
814,41 |
Hàn Quốc |
792 |
90.880 |
390 |
358.000 |
103,08 |
-74,61 |
Ấn Độ |
100 |
63.750 |
|
|
* |
* |
Nguồn số liệu: TCHQ
Nhằm hạn chế tình trạng bán quặng thô ra nước ngoài, từ tháng 2-2013, Bộ Công thương chính thức siết chặt hoạt động xuất khẩu khoáng sản.
Bộ Công thương đã ban hành thông tư 41/2012/TT-BCT quy định về xuất khẩu khoáng sản nhằm siết chặt việc xuất khẩu quặng và tinh quặng. Theo thông tư này, từ ngày 4-2-2013 chỉ có doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp mới được xuất khẩu khoáng sản; khoáng sản xuất khẩu phải có nguồn gốc hợp pháp và đã qua chế biến.
Theo Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng - Bộ Công thương, thông tư 41 nhằm siết chặt việc xuất khẩu khoáng sản nhằm hạn chế tối đa việc xuất khẩu quặng thô, quy định rõ ràng ra loại khoáng sản nào, đạt tiêu chuẩn nào mới được xuất khẩu. Chẳng hạn, việc xuất khẩu quặng titan, thông tư 41 quy định chỉ được phép xuất khẩu xỉ titan loại 1 (tỉ lệ oxit titan lớn hơn hoặc bằng 85%) và xỉ titan loại 2 (tỉ lệ oxit titan lớn hơn 70% và nhỏ hơn 85%); các loại quặng titan có hàm lượng oxit titan dưới 70% phải được tinh chế ở trong nước trước khi bán ra nước ngoài.
Thông tư 41 xác định, khoáng sản xuất khẩu gồm khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại, khoáng sản làm khoáng chất công nghiệp. Một số loại khoáng sản như bột zircon, xỉ titan, tinh quặng rutil, sản phẩm chế biến từ quặng bô xít (alumin, hydroxit nhôm), tinh quặng vonfram, tinh quặng niken, đá hoa trắng (dạng bột, dạng cục) nằm trong diện phải tuân thủ quy định của thông tư này… Than, dầu mỏ, khí đốt thiên nhiên, condensate, băng cháy, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng, khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng, hợp kim, kim loại không thuộc phạm vi điều chỉnh của thông tư nói trên.
Về nguồn gốc hợp pháp, thông tư nói trên quy định khoáng sản phải được khai thác từ các mỏ, điểm mỏ có giấy phép khai thác, giấy phép khai thác tận thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, khoáng sản được nhập khẩu hợp pháp hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tịch thu và phát mại.
Thông tư 41/2012/TT-BCT được Bộ Công thương ban hành ngày 24-12-2012 quy định về xuất khẩu khoáng sản có hiệu lực từ ngày 4-2-2013 và thay thế cho Thông tư số 08/2008/TT-BCT của Bộ Công thương về hướng dẫn xuất khẩu khoáng sản.
Tuy nhiên, tại thời điểm này, do thị trường xuất khẩu ảm đạm, thuế xuất, nhập khẩu tăng cao, các đối tác lợi dụng dìm giá… đã khiến nhiều DN được phép xuất khẩu lần này nửa mừng, nửa lo.
Trước những khó khăn của nhiều DN khai khoáng, ngày 16/1/2013, UBND tỉnh đã có văn bản gửi Bộ Công Thương đề nghị cho phép xuất khẩu một số loại khoáng sản tồn kho trên địa bàn tỉnh, bao gồm: 917.000 tấn tinh quặng sắt, 277.997 tấn tinh quặng titan, 3.500 tấn tinh quặng đồng và 50.902 tấn tinh quặng chì, kẽm. Sau khi kiểm tra thực tế, Bộ Công Thương đã đồng ý cho một số DN của tỉnh xuất khẩu. Đối với quặng sắt, cho phép Công ty CP Luyện kim đen được xuất khẩu tối đa 150.000 tấn; Công ty CP Sản xuất gang Hoa Trung 100.000 tấn; Công ty TNHH Vương Anh 90.000 tấn; Doanh nghiệp Anh Thắng 150.000 tấn…. Với quặng titan, cho phép Công ty CP Ban Tích xuất khẩu 28.000 tấn; Công ty TNHH Hoa Hằng 30.000 tấn; Công ty TNHH Xây dựng và Phát triển nông thôn miền núi 15.000 tấn; Công ty TNHH Doanh Trí 5.000 tấn…. Với quặng chì, kẽm, đồng, cho phép Công ty CP Kim Sơn xuất khẩu 3.500 tấn tinh quặng đồng; Công ty Liên doanh Kim loại màu Việt Bắc 20.000 tấn tinh quặng kẽm, 5.000 tấn quặng chì…
Sau khi có văn bản chấp thuận cho các DN xuất khẩu, Bộ Công Thương khẳng định: Việc xuất khẩu khoáng sản lần này được Thủ tướng Chính phủ cho phép như một giải pháp xử lý tình thế đặc cách để giúp các DN giải phóng hàng tồn kho, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, thu hồi vốn ứ đọng, tạo thêm nguồn lực giúp DN duy trì hoạt động.
Trước thông tin được phép xuất khẩu, nhiều DN khai khoáng, nhất là các DN đang có lượng hàng tồn kho lớn, đã bày tỏ sự vui mừng thực sự. Tuy nhiên, sau khi khảo sát thị trường và tính toán thực tế, các DN đều thấy rằng tại thời điểm này nếu xuất khẩu tinh quặng chắc chắn sẽ bị lỗ vì giá xuống quá thấp so với trước. Bởi thế, lúc này chủ các DN phải đứng trước sự lựa chọn xuất khẩu hay đừng. Nhưng cuối cùng, không ít DN cực chẳng đã phải xuất khẩu ở thời điểm khó khăn này để cứu DN, dù biết rằng sẽ bị thiệt.
Theo Hiệp hội titan Việt Nam thì do chế biến sâu trong nước gặp khó khăn (vì phải đầu tư lớn, chi phí nguyên, nhiên liệu, nhân công lại tăng quá cao, trong khi giá thành sản phẩm làm ra thấp) nên nhiều DN trong nước không dám đầu tư chế biến. Do vậy, lượng hàng tồn kho nhiều, buộc các DN phải tìm đến phương án xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu ở thời điểm này thì ngoài phải chịu thuế suất 30%, 40%, các DN còn phải chịu sự dìm giá của các đối tác nước ngoài.
Việc cho phép xuất khẩu khoáng sản lần này được áp dụng đối với tất cả các DN khai khoáng đủ điều kiện trong cả nước chứ không riêng một địa phương nào, do đó sự cạnh tranh rất gay gắt, việc tìm kiếm đối tác xuất khẩu không phải dễ dàng. Hiện tại, nhiều DN đang chờ đợi giá cả thị trường xuất khẩu khoáng sản sẽ “tươi sáng” hơn vì họ kỳ vọng với thời gian cho phép xuất khẩu không gò bó như trước của Chính phủ, việc ép giá, dìm hàng của các đối tác nước ngoài sẽ không còn nữa… Như thế, hàng tồn kho trong nước sẽ được giải quyết, khó khăn của DN cũng phần nào được tháo gỡ trên cơ sở hạn chế thấp nhất rủi ro, thiệt thòi.
Theo vinanet