|
Số liệu thống kê từ TCHQ VN cho biết, tháng 3/2013 Việt Nam đã thu về 17,5 triệu USD do xuất khẩu hàng mây, tre, cói và thảm, tăng 59% so với tháng 2/2013, nâng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này 3 tháng đầu năm 2013 lên 53,9 triệu USD, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2012.
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Nga, Pháp, Anh... là những thị trường chính Việt Nam xuất khẩu mây, tre, đan trong quí I/2013. Nổi bật lên hơn cả là thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch 11,9 triệu USD, chiếm 22,1% thị phần, tăng 18,67% so với 3 tháng năm 2012.
Trong số các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản thì gốm sứ, đồ gỗ nội thất và mây tre đan là các mặt hàng chính. Ba tháng đầu năm 2013, Nhật Bản đã nhập khẩu 8,3 triệu USD hàng mây tre đan từ thị trường Việt Nam, giảm 4,67% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng Giám đốc Công ty tư vấn doanh nghiệp Sense of Life (Nhật Bản) cho biết, mặc dù kinh tế khó khăn, sức mua giảm sút đáng kể nhưng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó có các mặt hàng thủ công mỹ nghệ vẫn chiếm được lòng tin của người tiêu dùng Nhật Bản, đồng thời cũng khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt được những xu thế trong kinh doanh của người Nhật Bản để đưa ra chiến lược xuất khẩu phù hợp.
Một lưu ý cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật là trong quan hệ kinh doanh với doanh nghiệp Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý: Xử lý mau lẹ các yêu cầu của khách hàng, đảm bảo thời gian giao hàng, chất lượng sản phẩm, có dịch vụ chăm sóc sau bán hàng, làm rõ nguồn cung cấp nguyên vật liệu, không sử dụng lao động trẻ em, hiểu được người sản xuất.
Đề xuất phương hướng cho xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ sang Nhật trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng, thiết kế sản phẩm là vấn đề nan giải nhất hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam, Muốn xuất khẩu tốt sang thị trường này thì các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường khâu thiết kế sản phẩm nhưng không nên chỉ đơn thuần chạy theo thiết kế mà phải đảm bảo cả tính năng sử dụng của sản phẩm nữa. Ngoài ra, cần chú trọng đến việc tạo ra sản phẩm độc đáo mang tính khu vực của Việt Nam (sản phẩm vùng) mà vẫn phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Nhật.
Đối với thị trường Đức – ba tháng đầu năm Việt Nam đã thu về 6,1 triệu USD hàng mây tre đan từ Đức – đây là thị trường đứng thứ ba về kim ngạch trong bảng xếp hạng, tuy nhiên lại giảm 18,33% so với cùng kỳ năm trước.
Theo Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại ViGea tại CHLB Đức, thì Đức có nhu cầu nhập khẩu các loại nông sản, hàng thủ công, thủ công mỹ nghệ... rất lớn. Mỗi năm, CHLB Đức phải chi hàng trăm triệu USD để nhập khẩu các loại nông sản và hàng tiêu dùng, nếu doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được lợi thế nguồn nguyên liệu sẵn có giá nhân công rẻ... và hợp tác, liên kết chặt chẽ trong việc duy trì ổn định chất lượng sản phẩm thì hoàn toàn có khả năng xuất khẩu hàng hóa vào thị trường CHLB Đức.
Để xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Đức, doanh nghiệp Việt Nam phải tìm được một lối đi riêng. Chúng ta không thể cạnh tranh bằng hàng hóa sản xuất đại trà, giá rẻ với hàng Trung Quốc hay các loại sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền công nghệ chất lượng cao của Hàn Quốc, Nhật Bản... mà phải "thổi" được văn hóa Việt vào từng sản phẩm, với nguồn nguyên liệu thiên nhiên sẵn có và bàn tay tài hoa của người thợ Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể đưa hàng thủ công, thủ công mỹ nghệ vào thị trường Đức.
Thống kê thị trường xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói và thảm tháng 3,3 tháng 2013
ĐVT: USD
|
KNXK T3/2013 |
KNXK 3T/2013 |
KNXK 3T/2012 |
% SS +/- KN so cùng kỳ |
tổng KN |
17.597.883 |
53.972.913 |
50.973.801 |
5,88 |
Hoa Kỳ |
4.239.410 |
11.959.528 |
10.078.009 |
18,67 |
Nhật Bản |
3.254.863 |
8.365.826 |
8.776.029 |
-4,67 |
Đức |
2.214.864 |
6.161.139 |
7.543.934 |
-18,33 |
Nga |
960.672 |
3.612.785 |
1.290.560 |
179,94 |
Pháp |
575.960 |
2.266.708 |
1.487.236 |
52,41 |
Anh |
617.983 |
1.982.905 |
1.482.348 |
33,77 |
Hà Lan |
427.846 |
1.628.055 |
1.282.344 |
26,96 |
Canada |
493.109 |
1.608.246 |
1.231.249 |
30,62 |
Hàn Quốc |
574.515 |
1.556.442 |
1.136.957 |
36,90 |
Oxtrâylia |
523.245 |
1.534.169 |
1.904.802 |
-19,46 |
Đài Loan |
481.426 |
1.247.161 |
1.373.904 |
-9,23 |
Tây Ban Nha |
342.060 |
986.363 |
1.194.678 |
-17,44 |
Ba Lan |
160.213 |
905.264 |
1.115.110 |
-18,82 |
Thuỵ Điển |
379.085 |
903.556 |
797.333 |
13,32 |
Italia |
214.273 |
902.855 |
1.321.197 |
-31,66 |
Bỉ |
159.196 |
636.238 |
1.361.709 |
-53,28 |
Đan Mạch |
75.812 |
599.964 |
387.187 |
54,95 |
(Nguồn số liệu: TCHQ)
Việt Nam hiện nằm trong tốp 3 Quốc gia xuất khẩu mây tre đan nhiều nhất thế giới, với tổng doanh số hơn 200 triệu USD/năm. Với nguồn nguyên liệu lớn sẵn có, nhân lực dồi dào, Việt Nam hoàn toàn có khả năng chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, việc phát triển ngành này vẫn còn gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại về nguồn nguyên liệu, mẫu mã, thị trường...
Việc thiếu nguyên liệu, đặc biệt đối với ngành mây, tre đan đã được báo động từ 10 năm nay song đáng tiếc cho tới nay vẫn chưa có một chương trình hay kế hoạch nào khả quan để giải quyết khó khăn đó.
Không phủ nhận rằng, đã xuất hiện nhiều mô hình trồng thử nghiệm cây mây, song mới chỉ dừng lại ở mức độ thử nghiệm, hoặc có hình thành vùng sản xuất nhưng ở quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất. Khả năng tìm hiểu thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp còn non kém. Đa số các doanh nghiệp đều sản xuất theo mẫu mã nước ngoài hoặc nhái lại và gia công cho tập đoàn nước ngoài nên bị ép giá. Mặt khác, việc tham gia các triển lãm và hội chợ trong và ngoài nước của các doanh nghiệp mây tre đan còn bị hạn chế bởi nguồn tài chính yếu...
Để khắc phục những khó khăn này, theo ý kiến của các chuyên gia, chúng ta cần rà soát điều chỉnh lại quy hoạch sử dụng đất, từ đó lên phương án cụ thể giải phóng mặt bằng hỗ trợ các đơn vị có yêu cầu mặt bằng sản xuất. Đồng thời, cần tăng cường đào tạo nghề, xây dựng đội ngũ nghệ nhân, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu, đặc biệt là phát triển các vùng nguyên liệu tập trung đủ sức cung cấp nguyên liệu ổn định cho sản xuất.
Đồng thời, chính quyền các cấp cần tạo mọi điều kiện, hỗ trợ cần thiết để các doanh nghiệp liên kết, liên doanh xây dựng vùng nguyên liệu (giao đất lâm nghiệp ổn định và lâu dài, tham gia các chương trình/dự án trồng rừng sản xuất...). Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mây tre đan tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, ngân hàng, hỗ trợ DN phát triển thị trường, liên kết liên doanh tạo sức cạnh tranh.
Cùng với những chiến lược, chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì bản thân những làng nghề, doanh nghiệp mây tre cũng cần chủ động hơn nữa trong việc hình thành mối liên kết, tạo sức mạnh tập thể trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị sản phẩm của mình.
Hy vọng rằng, cùng với việc nhận thức đúng đắn về thực trạng, vị thế của ngành mây tre đan Việt Nam, với những động thái tích cực của cả Nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân, trong thời gian tới, ngành sản xuất mây tre đan xuất khẩu của nước ta sẽ phát triển nhanh và bền vững.
Theo Bộ Công Thương
|