|
Năm 2010, sự phục hồi của kinh tế thế giới đặc biệt là của các thị trường truyền thống, giá nhiều nhóm hàng và nhu cầu thế giới tăng trở lại đã tạo điều kiện tốt hơn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Kết quả xuất khẩu đạt mức tăng trưởng cao (25,5%) vượt mức kế hoạch của Quốc hội giao, nhập siêu đã dần được kiểm soát, dưới mức 20% kim ngạch xuất khẩu (KNXK), cụ thể là 17,3%; tốc độ tăng xuất khẩu đã cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu; kim ngạch xuất khẩu bình quân năm 2010 ước đạt 5,96 tỷ USD/tháng là mức cao nhất từ trước tới nay.
Về xuất khẩu
- Về quy mô xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá (KNXK) năm 2010 đạt khoảng 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009 và tăng 18% so với kế hoạch (kế hoạch là 60,54 tỷ USD). Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong tăng trưởng xuất khẩu và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt khoảng 38,8 tỷ USD, chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 27,8%, nếu trừ dầu thô đạt khoảng 33,8 tỷ USD, tăng 40,1% so với năm 2009; khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt khoảng 32,8 tỷ USD, chiếm 46%, tăng 22,7%, so với năm 2008.
-
Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực và chiếm tỷ trọng cao trong nhiều mặt hàng, đặc biệt là nhóm hàng công nghiệp chế biến. Một số mặt hàng khối FDI chiếm tỷ trọng lớn là: túi xách, va li mũ ô dù, hàng dệt may, giày dép, điện tử, máy tính, máy móc, thiết bị, dây cáp điện. Nhóm hàng công nghiệp chế biến là nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất và tỷ trọng của FDI trong nhóm này cũng chiếm cao nhất. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu các năm tiếp theo vẫn phụ thuộc nhiều vào khối này
- Về nhóm hàng xuất khẩu:
+ Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt 15,1 tỷ USD, chiếm 21% trong tổng KNXK, tăng 22,9% so với cùng kỳ. So với năm 2009, lượng XK của nhiều mặt hàng nông sản giảm, như: sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 49,2%, hạt tiêu giảm 12,7%, cà phê giảm 1%... nhưng do giá XK bình quân của các mặt hàng đều tăng như: sắn và sản phẩm từ sắn tăng 90%, hạt tiêu tăng 22%, cà phê tăng 2%... đã phần nào bù đắp thiệt hại do lượng giảm. Xuất khẩu mặt hàng gạo tăng 14,6%, đạt kỷ lục về lượng (6,8 triệu tấn) và được lợi về giá, đã đóng góp lớn vào gia tăng xuất khẩu của nhóm. Mặt hàng cao su mặc dù lượng xuất chỉ tăng 7%, nhưng do giá xuất khẩu tăng 80% đã làm KNXK tăng cao nhất trong nhóm (tăng 93,6%). Xuất khẩu thuỷ sản mặc dù gặp nhiều khó khăn do rào cản thương mại từ các nước nhập khẩu, nhưng cũng tăng trưởng cao 16,5%. Tính chung nhóm hàng này tăng khoảng 2,8 tỷ USD so với năm 2009.
+ Nhóm khoáng sản ước đạt 7,9 tỷ USD, chiếm 11,1% trong tổng KNXK. Trong nhóm này, lượng xuất khẩu của tất cả mặt hàng đều giảm lớn, tuy nhiên do được lợi về giá xuất khẩu, nên tổng giá trị XK của nhóm chỉ giảm khoảng 8,4%. Cụ thể, lượng XK dầu thô giảm 40,3%, tuy nhiên do giá XK tăng 33% nên giá trị XK chỉ giảm 20,2%; mặt hàng than đá mặc dù lượng giảm 23,1% nhưng do giá XK tăng nên KNXK tăng 17,7%. Tính chung xuất khẩu nhóm khoáng sản giảm 731 triệu USD so với năm 2009.
+ Nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 38,5 tỷ USD, chiếm 53,8% trong tổng KNXK, tăng 30% so với năm 2009. Đây là nhóm hàng tăng trưởng cao nhất và là nhóm hàng chủ lực trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Những mặt hàng có mức tăng trưởng cao là: sắt thép các loại (162,3%), hoá chất (49,7%); chất dẻo nguyên liệu (39,8%); sản phẩm hoá chất, sản phẩm từ cao su, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng trên 50%. Mặt hàng dệt may trong năm đã xác lập kỷ lục lần đầu tiên kể từ tháng 8 đến tháng 12, XK đạt trên 1 tỷ USD/tháng. Mặt hàng giầy dép, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cũng có mức tăng trưởng cao lần lượt là 24,9% và 28,8%. Mặt hàng giầy dép là mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn thứ 2 sau dệt may. Tính chung xuất khẩu của nhóm tăng hơn 8,8 tỷ USD.
- Về giá xuất khẩu: Giá hàng hóa xuất khẩu có xu hướng tăng dần vào những tháng cuối năm, so với mức giá bình quân của 12 tháng năm 2009 thì mức giá bình quân của các mặt hàng nông sản, khoáng sản đều tăng. Tính riêng nhóm hàng nông sản do tăng giá đã làm cho KNXK tăng 1,87 tỷ USD, nhóm khoáng sản do tăng giá đã làm cho KNXK tăng 1,78 tỷ USD. Tính chung cả 2 nhóm do tăng giá đã đóng góp 3,65 tỷ USD vào KNXK, bù đắp được thiệt hại do giảm lượng xuất khẩu (thiệt hại do giảm lượng khoảng hơn 2,58 tỷ USD), trong đó do giảm lượng xuất khẩu và dầu thô đã làm giảm 2,8 tỷ USD.
- Về thị trường xuất khẩu: Năm 2010, xuất khẩu tăng trên tất cả các khu vực thị trường, trong đó thị trường châu Á ước tăng 32,6%, tiếp đó đến thị trường châu Mỹ ước tăng 25,8%, thị trường châu Âu ước tăng 18,2%, thị trường châu Phi - Tây Á - Nam Á ước tăng 45% và thấp nhất là châu Đại dương ước tăng 13,6%.
+ Thị trường Châu Á vẫn là thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam, chiếm 47%, với KNXK ước đạt 33,9 tỷ USD, trong đó tăng cao nhất là thị trường Inđônêsia và Brunây trên 70%, tiếp đến là Hàn Quốc, Hồng Kông, Trung Quốc, Myanma tăng trên 40%.
+ Thị trường Châu Âu ước đạt 12,5 tỷ USD, trong đó: Khối EU ước đạt kim ngạch 9,47 tỷ USD, tăng 17,8%; khối các nước Tây Âu, Bắc Âu và Đông Âu, tăng 19,5%.
+ Thị trường châu Mỹ ước đạt 13 tỷ USD, trong đó: Thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch 11,3 tỷ USD, tăng 24,1%.
+ Thị trường Châu Phi - Tây Á - Nam Á đạt 4,8 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2009.
+ Thị trường Châu Đại Dương đạt 2,3 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2009, tăng thấp nhất trong các khu vực, chủ yếu do xuất khẩu dầu thô sang Ôxtrâylia giảm.
Nhập khẩu và cán cân thương mại
Với nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc trong nước đã sản xuất được, nhiều mặt hàng có khối lượng nhập khẩu giảm so với năm 2009, mặc dù một số mặt hàng vẫn còn có mức nhập khẩu cao.
Tổng kim ngạch nhập khẩu (KNNK) hàng hoá năm 2010 khoảng 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm 2009, trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 36,4 tỷ USD, chiếm 43% tổng KNNK cả nước, tăng 39,9%; kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 47,5 tỷ USD, chiếm 56%, tăng 8,3% so với năm 2009.
Trong tổng nhập khẩu, nhóm hàng cần thiết nhập khẩu chiếm một tỷ trọng đáng kể, chủ yếu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, phục vụ cho đầu tư xây dựng các công trình, dự án. KNNK của nhóm ước đạt 68 tỷ USD, tăng 18% và chiếm tỷ trọng 80% tổng kim ngạch nhập khẩu. Một số mặt hàng có lượng nhập khẩu cao là lúa mỳ tăng 62,4%, phôi thép tăng 61%, kim loại thường tăng 19,3%. Một số mặt hàng có giá trị nhập khẩu tăng cao là: bông (69%) phôi thép, kim loại thường (57%), sợi các loại (43,6%), nguyên phụ liệu dệt may, da giày (36%), máy tính điện tử, linh kiện (30,7%). Do vậy khi xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng, thì nhập khẩu nguyên liệu cho nhóm này tăng, trong đó khối FDI tăng 39,9%.
Giá nhập khẩu hàng hoá khá ổn định kể từ đầu năm nhưng ở mức cao, tuy nhiên từ 3 tháng trở lại đây, giá nhập khẩu lại có xu hướng tăng thêm dần, nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da giầy cũng gia tăng đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, đây cũng là yếu tố làm tăng KNNK.
Một số mặt hàng nhập khẩu tính được về lượng, do lượng NK giảm đã làm giảm hơn 2,1 tỷ USD nhập khẩu, tuy nhiên do giá nhập khẩu tăng đã làm NK tăng lên hơn 5,1 tỷ USD, bù trừ giữa tăng giá và giảm lượng của những mặt hàng tính được này cũng đã làm tăng KNNK lên 2,98 tỷ USD.
- Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu ước đạt 4,93 tỷ USD, giảm 31,9% và chiếm tỷ trọng 5% kim ngạch nhập khẩu, bằng năm 2009.
- Nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu đạt 5,7 tỷ USD, tăng 14,2% và chiếm tỷ trọng 6% kim ngạch nhập khẩu, giảm 1 điểm % so với năm 2009, chủ yếu do giảm nhập khẩu các mặt hàng ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ và xe máy nguyên chiếc.
Về thị trường nhập khẩu
Nhập khẩu từ thị trường Châu Á vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất là 78% KNNK cả nước. Trong đó, từ ASEAN chiếm hơn 19%, các nước Đông Á chiếm 55%, riêng Trung Quốc chiếm hơn 23%.
Nếu xét về tốc độ tăng nhập khẩu thì nhập khẩu từ khu vực Châu Đại Dương có mức tăng trưởng cao nhất (tăng 40,8% so với cùng kỳ) chủ yếu là nhập khẩu sữa, lúa mỳ và gỗ nguyên liệu; tiếp đến thị trường châu Mỹ tăng 23,9%, trong đó từ Mỹ tăng 24,9% chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu sản xuất như thức ăn gia súc, gỗ, bông, nguyên phụ liệu dệt may da giầy.
- Cán cân thương mại: Nhập siêu năm 2010 ước tính là 12,37 tỷ USD, bằng 17,27% kim ngạch xuất khẩu. Xét theo khối doanh nghiệp, thâm hụt thương mại chủ yếu rơi vào khu vực các doanh nghiệp trong nước với 9,78 tỷ USD, chiếm 79% thâm hụt thương mại của cả nước. Các doanh nghiệp FDI (không kể dầu thô) chỉ thâm hụt 2,6 tỷ USD, chiếm 21%.
Về thị trường trong nước
Dưới sự chỉ đạo kịp thời, sát sao, quyết liệt của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã tích cực triển khai nhiều giải pháp nhằm khai thác và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Năm 2010 được đánh giá là năm thị trường trong nước có những bước phát triển khá, nhờ các giải pháp kích cầu tiêu dùng thông qua Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các chương trình khuyến mại, giảm giá của các doanh nghiệp phân phối, các đợt đưa hàng về nông thôn, về các khu công nghiệp, các đợt tổ chức hội chợ, triển lãm, thực hiện các đề án hỗ trợ lãi suất hoặc cho vay vốn để mở các điểm bán hàng ổn định giá ... Nhiều doanh nghiệp thương mại đã củng cố và phát triển hệ thống phân phối, triển khai các loại hình bán buôn, bán lẻ mới theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp. Mạng lưới chợ và loại hình thương mại truyền thống tiếp tục được quan tâm phát triển. Thị trường miền núi, hải đảo được bảo đảm cung cấp đầy đủ các mặt hàng chính sách như sách vở, muối ăn, dầu hỏa,... Nhờ đó, cân đối cung cầu các mặt hàng trọng yếu được bảo đảm, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, không để xảy ra tình trạng “sốt hàng, sốt giá”. Một số biểu hiện “sốt hàng” đã kịp thời được can thiệp nên thị trường đã bình ổn nhanh trở lại.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước ước đạt 1.561,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5% so với năm 2009. Đây là mức tăng khá cao, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng gần 13%. Trong đó, kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt 85,3% giá trị lưu chuyển. Các thành phần kinh tế khác đều duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, song tỷ trọng còn hạn chế, chưa có sự chuyển dịch đáng kể.
Theo Vinanet
|