Giải ngân vốn ODA đã có chiều hướng tích cực hơn, nhưng vẫn còn những
khoảng trống cần lấp đầy để đồng vốn quý báu này sớm đến được các công trình,
dự án quan trọng của quốc gia.
Cách đây vừa đúng một
tuần, hầm Thủ Thiêm, hầm vượt sông lớn nhất Đông Nam Á và toàn tuyến Đại lộ
Đông - Tây TP.HCM đã chính thức thông xe. Dự án có ý nghĩa quan trọng trong
phát triển giao thông và kinh tế - xã hội TP.HCM này có tổng vốn đầu tư tương
đương 762 triệu USD, trong đó vốn vay ODA từ Nhật Bản chiếm 65%, vốn đối ứng
35%. Như vậy, thêm một dự án sử dụng vốn ODA nữa được đưa vào vận hành, để cùng
với những Sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, cảng Cái Mép - Thị
Vải… góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho tăng trưởng và phát
triển của Việt Nam.
Trước đó, cuối tháng 10/2011, tại Tokyo (Nhật Bản), Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh và Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại
Việt Nam Yasuaki Tanizaki đã ký công hàm trao đổi về khoản tín dụng ưu đãi
thuộc đợt 1 tài khóa 2011 mà Nhật Bản dành cho Việt Nam. 5 dự án, trong đó có
Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn, đường cao tốc Bắc - Nam (đoạn Bến Lức - Long
Thành), Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (cảng Lạch Huyện)…, được hưởng lợi từ
khoản tín dụng ưu đãi này, với tổng giá trị tương đương 1,2 tỷ USD.
Những diễn biến đó
cho thấy chuyển biến tích cực trong ký kết hiệp định, giải ngân vốn ODA ở Việt
Nam. Nhưng trước thềm Diễn đàn Cấp cao về Hiệu quả viện trợ lần thứ 4 sẽ diễn
ra ngày mai (29/11) tại Busan (Hàn Quốc) và Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài
trợ cho Việt Nam (CG) sẽ diễn ra tại Hà Nội vào tuần sau, một lần nữa, vấn đề
thúc đẩy giải ngân vốn ODA và nâng cao hiệu quả viện trợ được đặt ra.
Theo báo cáo của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, giải ngân vốn ODA trong những năm gần đây đã có những
chuyển biến tích cực. 10 tháng đầu năm nay, con số này là 2,33 tỷ USD và ước cả
năm sẽ đạt khoảng 3,65 tỷ USD, tăng 3,1% so với năm 2010.
Thậm chí, trong giai
đoạn 2006-2010, dựa trên các mục tiêu của Đề án Định hướng thu hút và sử dụng
vốn ODA thời kỳ này, thì cả vốn cam kết, vốn ký kết và vốn giải ngân đều đạt và
vượt kế hoạch đề ra. Đặc biệt, tăng trưởng tốc độ giải ngân vốn của 6 ngân hàng
phát triển (bao gồm WB, ADB, JICA, KEXIM, KFW, AFD) trong vòng 3 năm qua rất ấn
tượng.
Tuy nhiên, một cách
thẳng thắn, ông Hoàng Viết Khang, Vụ trưởng Vụ Kinh tế đối ngoại (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư) thừa nhận rằng, mặc dù kết quả giải ngân đã tăng mạnh trong giai
đoạn này, song tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA vẫn chưa đạt yêu
cầu và đối với một số nhà tài trợ, còn thấp hơn với mức bình quân của khu vực
và thế giới.
“Với vốn của WB, tỷ
lệ giải ngân của Việt Nam là 11,6% so với 19,4% của khu vực; với vốn của JICA,
tỷ lệ giải ngân của Việt Nam là 13,6% so với 16,6% của quốc tế. Nhiều chương
trình, dự án đầu tư sử dụng vốn vay ODA đã phải gia hạn, làm giảm hiệu quả đầu
tư do chậm đưa các công trình vào khai thác, sử dụng”, ông Khang nói.
Số liệu thống kê cho
thấy, đến nay, số vốn ODA đăng ký, có hiệu lực là 26,383 tỷ USD, nhưng giá trị
giải ngân mới đạt được 6,965 tỷ USD, còn 19,418 tỷ USD chưa được giải ngân. Một
số nhà tài trợ còn tồn đọng vốn lớn như WB (6,128 tỷ USD), Nhật Bản (5,981 tỷ
USD), ADB (4,575 tỷ USD)...
Lý giải cho sự chậm
trễ này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, đó là do những khác biệt về thủ tục
giữa Việt Nam và các nhà tài trợ; còn xung đột trong các văn bản pháp quy về
quản lý và sử dụng vốn ODA. Những vướng mắc trong đền bù, giải phóng mặt bằng;
thời gian thực hiện dự án kéo dài... cũng ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân vốn
ODA. Đó là chưa kể, năng lực tổ chức và quản lý ODA ở cấp địa phương còn hạn
chế.
“Mặc dù tiến độ giải
ngân đã có những thay đổi tích cực, nhưng việc phân bổ vốn còn chậm”, vị đại
diện của ADB nói và bày tỏ sự đồng tình với quan điểm của JICA cho rằng, vốn
đối ứng giữ vai trò rất quan trọng trong việc đẩy nhanh tiến độ dự án. Theo vị
này, mặc dù vốn đối ứng đã được Chính phủ cam kết, anhưng vẫn chưa tới tay ban
quản lý dự án kịp thời và điều này cần sớm được tháo gỡ.
Bên cạnh đó, theo
nhóm 6 ngân hàng phát triển, một loạt vấn đề cần được cải thiện, như cần quy
định rõ ràng, cụ thể hơn về tiêu chí dự án cấp phát và dự án cho vay lại; hay
cần quản lý tài chính chặt chẽ, gắn việc gánh chịu rủi ro giữa Chính phủ và các
cơ quan cho vay lại cuối cùng; đặc biệt là làm sao để tránh được những rủi ro
về sự khác biệt tiền tệ…
Đây chính là những
khoảng trống cần được lấp đầy, nếu Việt Nam muốn thúc đẩy hơn nữa việc giải
ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Theo Baomoi