Sau 2 năm thực hiện chương trình “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, 40 tập thể và 44 cá nhân được khen thưởng sau
cuộc vận động. Tuy nhiên, thực tế người tiêu dùng chưa “với” được tới hàng Việt
Nam giá rẻ, chất lượng cao.
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập WTO, nguồn
vốn các doanh nghiệp (DN) nước ngoài lớn, sản phẩm ngoại nhập chất lượng, giá
cả cạnh tranh buộc các DN sản xuất trong nước phải nâng cao năng lực cạnh
tranh, nắm bắt thị hiếu khách hàng, cũng như xây dựng và bảo vệ
thương hiệu Việt.
Tuy nhiên, cuộc vận động chưa đi vào được đời
sống đông đảo đại bộ phận người dân ở các vùng miền, nhất là người tiêu dùng ở
vùng nông thôn và miền núi. Người tiêu dùng các vùng sâu vùng xa vẫn tiêu dùng
chủ yếu các mặt hàng xuất xứ từ Trung Quốc, hàng Việt chất lượng cao giá rẻ
chưa tiếp cận được với người dân vùng núi và nông thôn.
Ông Lê Bá Trình, Trưởng ban tổ chức cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhận định: “Cuộc vận
động là cuộc cách mạng thay đổi từ nhận thức tới hành vi của người tiêu dùng là
một chặng đường dài. Trong cuộc vận động này, không ít các đơn vị triển khai
còn mang tính hình thức, chưa tạo được sự tham gia sâu rộng của các tổ chức, cá
nhân trong DN; chưa kết nối được giữa sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Những
việc làm còn mang tính hội nghị, chưa đưa ra kế hoạch cụ thể. Ở trên cứ chỉ đạo
cho có việc, ở dưới làm tới đâu thì làm…”.
Chính vì sự hời hợt trong cách tổ chức, thiếu sự
giám sát từ cấp trên nên hàng Việt Nam mới chỉ tới được với một bộ
phận nhỏ người tiêu dùng. Hàng nhái, hàng lậu, hàng kém chất lượng, không đảm
bảo sức khỏe cho người tiêu dùng cạnh tranh với hàng chính gốc bằng giá rẻ và
mẫu mã lien tục thay đổi.
Do hầu hết các DN đã cổ phần hóa nên mục tiêu lợi
nhuận đặt lên hàng đầu nên phân khúc thị trường của các DN vẫn chú trọng phần
nhiều vào phân khúc cho khách hàng trung lưu trở lên. Hàng Việt chất lượng cao,
giá rẻ chủ yếu vẫn ở thị trường thành thị, chưa tới được với người dân các tỉnh
vùng nông thôn và miền núi.
“Nguyên nhân hàng Việt tới thị trường nông thôn
còn thưa là do phí vận chuyển cao, nguyên phụ liệu đầu vào tăng giá mạnh, nhất
là giá bông trong năm qua, tỉ giá USD/VNĐ liên tục biến động mạnh, làm giá
thành sản phẩm không thể thấp hơn. Nếu bán với giá rẻ cho tất cả người tiêu
dùng mua được thì DN không có lãi. Vì thế, DN cần có sự hỗ trợ nhiều hơn của
Chính phủ về vốn và các thủ tục pháp lý…” - Bà Nguyễn Thị Hồng Tín, Trưởng ban
thị trường trong nước, Tập đoàn dệt may Việt Nam phân tích.
Hội chợ thời trang hàng Việt Nam thu
hút người tiêu dùng tới mua, tuy nhiên giá cả về hàng quần áo, giầy dép (loại
đẹp) vẫn ở mức khá cao. Trừ những bộ quần áo, giầy dép hàng bình thường giá từ
100 - 200 nghìn đồng thì những món hàng thời trang được coi là đẹp vẫn mang giá
tiền triệu.
Tuy kim ngạch ngành Dệt may nội địa tăng 23% (năm
2010 so với 2009) và tăng12 -15% (năm 2011 so với năm 2010) nhưng hàng Việt mới
chỉ đến được với những người dân thành thị, mà những chuyến hàng
Việt về với miền núi và vùng nông thôn mới chỉ mang hình thức.
Hàng Việt Nam sản xuất ra được lại không phục vụ
người tiêu dùng, các công trình trong nước mà phải mang đi xuất khẩu 100%,
trong khi nhu cầu mặt hàng này phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nhiều DN mong muốn
được cung cấp sản phẩm của DN mình vào thị trường trong nước nhưng chưa làm
được, chỉ vì lý do thủ tục và thời gian thanh khoản.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may
Việt Nam cho biết: “Chúng tôi sản xuất ra mảng vải địa kỹ thuật dành
cho các công trình xây dựng giao thông thủy lợi. Trong khi thực tế nhu cầu
trong nước có nhưng chúng tôi buộc phải mang sản phẩm này xuất khẩu 100%, do
thời gian thanh khoản từ các ngân hàng quá lâu, phải từ 1 -2 năm, chúng tôi mới
thanh toán được. Sản phẩm trong nước có nhưng các công trình của chúng ta phải
nhập loại vải địa này từ nước ngoài…”.
Theo DanTri