Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu bảy tháng đầu năm đạt 62,9 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 23,9 tỷ USD, giảm 1,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 39 tỷ USD, tăng 36,6%.
Một số mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 6,2 tỷ USD, tăng 151,6%; giày dép đạt 4,2 tỷ USD, tăng 16%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 4 tỷ USD, tăng 81,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,1 tỷ USD, tăng 40,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,5 tỷ USD, tăng 50,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,5 tỷ USD, tăng 21,2%; cà phê đạt gần 2,5 tỷ USD, tăng 21,2%; sắn và sản phẩm của sắn đạt 905 triệu USD, tăng 47,3%; sản phẩm chất dẻo đạt 898 triệu USD, tăng 20,9%. Một số mặt hàng xuất khẩu có mức kim ngạch tăng khá là: Hàng dệt may đạt 8,2 tỷ USD, tăng 8,8%; dầu thô đạt 4,7 tỷ USD, tăng 10,9%; thủy sản đạt 3,4 tỷ USD, tăng 6,6%. Riêng xuất khẩu gạo và than đá tiếp tục giảm cả về lượng và giá trị so với cùng kỳ năm trước, trong đó gạo xuất khẩu đạt 4,6 triệu tấn, giảm 2% và kim ngạch đạt 2,1 tỷ USD, giảm 9,3%; than đá đạt 8,2 triệu tấn, giảm 18,9% và kim ngạch đạt 719 triệu USD, giảm 25,3%.
Về thị trường, Hoa Kỳ vẫn là thị trường lớn nhất với kim ngạch ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2011, chiếm 17,4% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; tiếp đến là EU đạt gần 11 tỷ USD, tăng 24%, chiếm 17,4%; ASEAN đạt 9,4 tỷ USD, tăng 26,1%, chiếm 15%; Nhật Bản đạt 7,6 tỷ USD, tăng 39,6%, chiếm 12,1%; Trung Quốc đạt 7 tỷ USD, tăng 21,9%, chiếm 11,1%.
Về nhập khẩu tính chung bảy tháng, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 63 tỷ USD, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 30 tỷ USD, giảm 7,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 32,9 tỷ USD, tăng 25,3%.
Trong bảy tháng đầu năm nay, một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước là: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 9 tỷ USD, tăng 5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,7 tỷ USD, tăng 92,3%; nguyên phụ liệu dệt may giày, dép đạt 1,8 tỷ USD, tăng 1,6%; hóa chất đạt 1,6 tỷ USD, tăng 5,8%; sản phẩm hóa chất đạt 1,4 tỷ USD, tăng 3,4%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,2 tỷ USD, tăng 26,1%; tân dược đạt 989 triệu USD, tăng 19,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước là: Xăng dầu đạt 5,4 tỷ USD, giảm 8,7%; kim loại thường đạt 1,4 tỷ USD, giảm 8,7%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 1,3 tỷ USD, giảm 6,9%; ôtô đạt 1,2 tỷ USD, giảm 34,1%, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 334 triệu USD, giảm 52,2%; phân bón đạt 799 triệu USD, giảm 10,1%; sợi dệt đạt 780 triệu USD, giảm 14,9%; bông đạt 524 triệu USD, giảm 25,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 448 triệu USD, giảm 31,6%.
Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch đạt 15,3 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2011; ASEAN đạt 12 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc đạt 8,6 tỷ USD, tăng 20,7%; Nhật Bản đạt 6,4 tỷ USD, tăng 12,1%; EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 14,9%; Hoa kỳ đạt 2,7 tỷ USD, tăng 5,1%.
THỦY NHI
(nguồn: Bộ Công Thương)
|