Theo số liệu của Bộ Công thương vừa công bố, kim ngạch xuất khẩu trong tháng 10 ước đạt 9,9 tỷ USD, tăng 4,4% so với tháng 9 và tăng 17,4% so với tháng 10-2011. Trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng 9 và tăng 17,7% so với tháng 10/2011. Như vậy, tính chung 10 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt hơn 93,45 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 51,55 tỷ USD, tăng 34,9%.
Xét theo nhóm hàng, so với cùng kỳ, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản ước đạt 17,35 tỷ USD, tăng 6,1% và chiếm tỷ trọng 18,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó: một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng như: thuỷ sản tăng 1,4%, nhân điều tăng 2,1%, cà phê tăng 35,4%, sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 38,4%. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu gạo giảm 3,9%; cao su giảm 8,4%; nhóm nhiên liệu, khoáng sản ước đạt 9,7 tỷ USD, tăng 4,5% và chiếm tỷ trọng 10,4%, trong đó: dầu thô tăng 15,6%, quặng và khoáng sản khác tăng 1,6%, than đá giảm 26,0%, xăng dầu các loại giảm 10,6%; nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt gần 59,77 tỷ USD, tăng 24,8% và chiếm tỷ trọng khoảng 63,9%, trong đó: bánh kẹo và sản phẩm từ ngũ cốc tăng 9,5%, hóa chất tăng 17,5%, sản phẩm hóa chất tăng 7,5%, phân bón các loại tăng 35,6%, chất dẻo nguyên liệu tăng 76,0%, sản phẩm chất dẻo tăng 17,4%, sản phẩm từ cao su tăng 7,2%, túi sách, vali, mũ, ô dù tăng 18,5%, gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 19,1%, giấy và sản phẩm từ giấy tăng 11,5%, hàng dệt và may mặc tăng 8,2%, giày dép các loại tăng 10,5%, sản phẩm từ sắt thép tăng 22,9%, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 69,3%, điện thoại các loại và linh kiện tăng 107,6%, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 32,2%, dây điện và dây cáp điện tăng 45,7%, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 37,1%... Một số mặt hàng kim ngạch giảm như: vải các loại giảm 14,6%, sắt thép các loại giảm 10,7%, kim loại thường khác và sản phẩm giảm 0,5%...; nhóm hàng hóa khác ước đạt hơn 6,3 tỷ USD, tăng 23,6% và chiếm tỷ trọng 7,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
Xét về giá, so với cùng kỳ, giá bình quân một số mặt hàng xuất khẩu tăng như: chè các loại tăng 0,5%, giá hạt tiêu tăng 17,1%, dầu thô tăng 1,7%, xăng dầu các loại tăng 4,1%, quặng và khoáng sản khác tăng 85,0%, chất dẻo nguyên liệu tăng 1,1%... Một số mặt hàng giá giảm như: nhân điều giảm 19,2%, cà phê giảm 3,4%, gạo giảm 38,3%, sắn và sản phẩm từ sắn giảm 12,9%, cao su giảm 33,8%, than đá giảm 11,9%, phân bón các loại giảm 1,0%, xơ, sợi dệt các loại giảm 18,1%, sắt thép các loại giảm 6,3%...
Xét về lượng, một số mặt hàng có lượng xuất khẩu tăng như: nhân điều tăng 26,3%, cà phê tăng 40,2%, chè các loại tăng 11,1%, gạo tăng 55,8%, sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 58,8%, cao su tăng 38,2%, dầu thô tăng 13,7%, phân bón các loại tăng 37,0%, chất dẻo nguyên liệu tăng 74,1%, xơ, sợi dệt các loại tăng 22,5%... Bên cạnh đó, một số mặt hàng có lượng xuất khẩu giảm như: hạt tiêu giảm 11,9%, than đá giảm 16,1%, xăng dầu các loại giảm 14,1%, quặng và khoáng sản khác giảm 65,5%, sắt thép các loại giảm 4,7%...
Xét theo thị trường, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 16,9% và chiếm tỷ trọng 17,4%; xuất khẩu vào EU tăng 20,1% và chiếm tỷ trọng 18,2%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 26,0% và chiếm tỷ trọng 14,9%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 26,0% và chiếm tỷ trọng 11,6%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 14,6% và chiếm tỷ trọng 10,9% .
Như vậy, xuất khẩu 10 tháng tiếp tục tăng trưởng cao so với cùng kỳ và so với kế hoạch đề ra. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu là do nhóm hàng công nghiệp chế biến của các doanh nghiệp FDI (điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử, máy ảnh, máy quay phim...) và do sự tăng giá xuất khẩu của hầu hết mặt hàng trong nhóm nhiên liệu, khoáng sản. Từ đầu năm đến nay đã có 22 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Thanh Long
|