|
Hoạt động xuất khẩu là một trong những kết quả nổi bật nhất trong 9 tháng đầu năm 2012 của nền kinh tế, mà biểu hiện cụ thể là có nhiều điểm vượt trội.
Thứ nhất, quy mô xuất khẩu đạt khá cao. Mới qua 9 tháng, nhưng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 83,8 tỷ USD, cao hơn nhiều so với kim ngạch xuất khẩu trong cả năm từ năm 2010 trở về trước (năm 2010 đạt 72,1 tỷ USD, năm 2009 đạt gần 57,1 tỷ USD, năm 2008 là gần 62,7 tỷ USD...). Bình quân mỗi tháng đạt trên 9,3 tỷ USD, trong đó có 2 tháng 7 và 8 vượt qua mức 10 tỷ USD.
Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu 9 tháng qua tăng 18,9% so với cùng kỳ năm ngoái, một tốc độ tăng mà gần như không có ngành, lĩnh vực nào đạt được.
Thứ ba, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt được ở nhiều nhóm mặt hàng chủ yếu, như điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính; sản phẩm điện tử và linh kiện; phân bón các loại; dây điện và dây cáp điện; phương tiện vận tải và phụ tùng...
Thứ tư, mới qua 9 tháng, song đã có 20 nhóm, mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó cao nhất là dệt may (11,25 tỷ USD); tiếp đến là điện thoại các loại và linh kiện (8,55 tỷ USD); dầu thô (6,34 tỷ USD); máy vi tính, điện tử và linh kiện (5,36 tỷ USD)...
Thứ năm, trong 8 tháng đầu năm nay, đã có 27 nước và vùng lãnh thổ là các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam (với kim ngạch đạt từ 500 triệu USD trở lên), trong đó 21 nước và vùng lãnh thổ đạt từ 1 tỷ USD trở lên, cao nhất là Mỹ (gần 13 tỷ USD), tiếp đến là Nhật Bản (gần 8,7 tỷ USD), Trung Quốc (gần 8,4 tỷ USD), Hàn Quốc (gần 3,5 tỷ USD), Malaysia (gần 2,9 tỷ USD), Đức (trên 2,6 tỷ USD), Hồng Kông (gần 2,2 tỷ USD), Cămpuchia (gần 1,9 tỷ USD)...
Thứ sáu, kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 83,7 tỷ USD, thấp hơn kim ngạch xuất khẩu, nên trong 9 tháng qua, cả nước đã xuất siêu 34 triệu USD. Mặc dù mức xuất siêu ít, nhưng đây là bước chuyển đổi vị thế quan trọng, bởi nhiều năm qua, trong quan hệ buôn bán với nước ngoài, Việt Nam liên tục nhập siêu. Quy mô nhập siêu trong các năm (từ năm 2007 đến 2010) đều vượt qua 10 tỷ USD, trong đó cao nhất là năm 2008 đã lên đến trên 18 tỷ USD. Năm 2011, mức nhập siêu đã thấp hơn, nhưng vẫn ở mức trên 9,8 tỷ USD.
Thứ bay, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kết quả tích cực và lĩnh vực này có xuất siêu lớn, nên đã tác động đến xuất khẩu và xuất siêu chung. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã đạt gần 25% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực này đã đóng góp 5 mặt hàng có kim ngạch , đạt từ 1 tỷ USD trở lên. Riêng xuất khẩu gạo đã đạt gần 5,9 triệu tấn (tính đến ngày 15/9).
Với việc nhập gần 1,57 triệu tấn gạo, Trung Quốc đã vượt qua nhiều nước, trở thành nước nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam.
Thứ tám, dự báo kim ngạch xuất khẩu cả năm nay sẽ đạt khoảng 112 tỷ USD, vượt kế hoạch đề ra và lập đỉnh cao mới (năm 2011 đạt 96,9 tỷ USD), về tỷ lệ xuất khẩu so với GDP (năm 2011 đạt 80,8%)... và có thể sẽ là năm đầu tiên trong 20 năm lại đây có xuất siêu.
Thứ chín, nhừ có xuất siêu, cán cân thương mại được cải thiện, đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối và ổn định được tỷ giá VND/USD (sau 9 tháng, giá USD giảm 0,94% so với VND).
Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất từ ngày 01/01/2012-15/9/2012 và so với cùng kỳ năm 2011
Đơn vị tính: Kim ngạch: Triệu USD, Tốc độ tăng:%
Stt |
Tên hàng |
Kim ngạch từ 01/1-15/9/2012 |
So với cùng kỳ năm 2011 |
Kim ngạch tăng |
Tốc độ tăng |
|
Tổng kim ngạch |
78.553 |
12.753 |
19,4 |
|
Trong đó: Doanh nghiệp FDI |
43.122 |
12.217 |
39,5 |
1 |
Hàng dệt, may |
10.459 |
770 |
8,0 |
2 |
Điện thoại các loại và linh kiện |
7.977 |
4.399 |
123,0 |
3 |
Dầu thô |
5.947 |
750 |
13,4 |
4 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
5.037 |
2.277 |
82,5 |
5 |
Giày dép các loại |
4.972 |
574 |
13,1 |
6 |
Hàng thủy sản |
4.186 |
139 |
3,4 |
7 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác |
3.895 |
1.246 |
47,0 |
8 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng: |
3.211 |
1.568 |
95,5 |
9 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
3.184 |
533 |
20,1 |
10 |
Cà phê |
2.762 |
594 |
27,4 |
Theo thuongmai.vn
|