Năm 2013, kết quả xuất khẩu nông, lâm và thủy sản ước đạt 27,469 tỷ USD, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, nổi bật có 7 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD.
Đóng góp lớn nhất là thủy sản với giá trị xuất khẩu đạt 6,7 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2012. Hoa Kỳ duy trì là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm 21,89% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong 11 tháng đầu năm, xuất khẩu sang thị trường này đạt trên 1,33 tỷ USD, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tiếp theo là gỗ và sản phẩm gỗ với kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 5,37 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2012. Trong 11 tháng đầu năm, ngoại trừ thị trường Đức giảm 16,54% và thị trường Pháp giảm 3,24% so với cùng kỳ năm 2012, xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ sang các thị trường tiêu thụ lớn hầu hết đều tăng trưởng mạnh. Cụ thể, Hoa Kỳ tăng 10,26%, Trung Quốc tăng 34,64%, Nhật Bản tăng 20,97% và Hàn Quốc tăng 45,23%... so với cùng kỳ năm ngoái.
Đứng thứ ba là gạo xuất khẩu, năm nay giảm 17,4% về khối lượng và giảm 19,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012 nhưng vẫn có đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu nông sản nói chung với 6,61 triệu tấn, trị giá 2,95 tỷ USD.
Giá gạo xuất khẩu trung bình đạt 441,2 USD/tấn, giảm 3,4% so với cùng kỳ năm 2012. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Khối lượng gạo xuất khẩu sang thị trường này trong 11 tháng tăng trưởng mạnh, đạt trên 2 triệu tấn với giá trị đạt 849,36 triệu USD, chiếm 30,93% tổng kim ngạch xuất khẩu. So với cùng kỳ năm ngoái, khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc tăng lần lượt là 6,22% và 2,74%.
Thứ tư là mặt hàng cà phê với khối lượng xuất khẩu 1,32 triệu tấn, kim ngạch đạt trị giá 2,75 tỷ USD. Đây cũng là mặt hàng giảm cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong năm nay với mức giảm 23,6% về khối lượng và giảm 25,1% về giá trị so cùng kỳ năm 2012. Giá xuất khẩu cà phê trung bình chỉ đạt 2.113,8 USD/tấn, giảm 0,73% so với cùng kỳ năm 2012.
Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng với thị phần lần lượt là 13,12% và 11,01%.
Thứ năm là cao su xuất khẩu, tăng 5,3% về khối lượng nhưng giảm 11,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012. Theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khối lượng xuất khẩu cao su cả năm 2013 đạt 1.078.000 tấn với giá trị 2,52 tỷ USD. Giá cao su xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2013 đạt 2.332,5 USD/tấn, giảm 17,19% so với mức giá 2.817,2 USD/tấn cùng kỳ năm 2012.
Hạt điều là mặt hàng thứ sáu với khối lượng xuất khẩu đạt mức 257.000 tấn với giá trị 1,63 tỷ USD, tăng 15,8% về lượng và 9,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.
Giá xuất khẩu trung bình của mặt hàng điều vẫn tiếp tục giảm trong năm 2013. Giá xuất khẩu trung bình 11 tháng đầu năm đạt 6.288,4 USD/tấn, giảm 5,86% so với mức giá trung bình cùng kỳ năm 2012 (6.680,3 USD/tấn). Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 33,09%, 17,72% và 9,66% tổng giá trị xuất khẩu.
Thứ bảy là sắn. Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn năm 2013 đạt 3,1 triệu tấn với giá trị 1,11 tỷ USD, giảm 25,9% về lượng và giảm 18,2% về giá trị xuất khẩu so với cùng kỳ năm 2012. Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam với giá trị 847,9 triệu USD, chiếm 85,52% thị phần. Giá trị xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc, Philippines và Nhật Bản có mức tăng trưởng đáng kể lần lượt là 54,5%, 11,46% và 3,38% so với cùng kỳ năm 2012.
Theo vinanet
|