Lặng
lẽ, nhưng nhờ có kịch bản kỹ càng, Ngân hàng Nhà nước đã có thành công bước đầu
trong vụ hợp nhất ba ngân hàng.
Có
thể thấy, Ngân hàng Nhà nước đang lựa chọn những giải pháp “hòa bình” thay vì
“bạo lực” trong quá trình thực hiện tái cơ cấu ngân hàng.
Hợp
nhất trong bình yên
Ngày
6/12/2011, Ngân hàng Nhà nước công bố chủ trương hợp nhất ngân hàng Ficombank,
TinNghiaBank và SCB thì ngày 8/12, ba đơn vị nói trên đã có ngay thông báo mời
họp “đại hội cổ đông bất thường năm 2011”, diễn ra vào 15/12 5 tới.
Điều
này cho thấy, các cổ đông chủ chốt đã có sự chuẩn bị từ trước và đạt được được
sự đồng thuận cao nhằm hợp nhất thành công ba ngân hàng; đưa “ngân hàng hợp nhất”
trở thành một đơn vị có năng lực tài chính vững mạnh, quản trị điều hành phù hợp
với quy định luật pháp, thông lệ quốc tế và phát triển bền vững trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
Ông
Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hội đồng Thành viên BIDV, đơn vị được giao nhiệm vụ thay
mặt nhà nước quản lý phần vốn nhà nước hỗ trợ chi trả thanh khoản cho “ngân
hàng hợp nhất” trước trong và sau quá trình hợp nhất nói: “Với sự chỉ đạo của
Ngân hàng Nhà nước và hiện diện của BIDV, tôi tin rằng, hoạt động của “ngân
hàng hợp nhất” nhanh chóng ổn định trở lại; tuân thủ luật pháp, đáp ứng các yêu
cầu, chỉ số an toàn của Ngân hàng Nhà nước; tập trung giải quyết các khoản nợ
tín dụng để thu hồi nợ và đánh giá được tài sản đảm bảo nợ, bao gồm cả tính hợp
lệ, hợp pháp cũng như giá trị thực của chúng”.
Đặc biệt, đối với quyền lợi người gửi tiền, ông Hà
khẳng định: “Trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ đảm bảo bảo mọi quyền lợi của người
gửi tiền hợp pháp khi tái cơ cấu. Với chế độ chính trị của Việt Nam, sẽ không
có câu chuyện người gửi tiền bị mất tiền!”.
Liên
quan đến vụ hợp nhất nói trên, có một số vấn đề khá nhạy cảm, trao đổi với
người viết, ông Hà cho biết, thứ nhất, nguồn tài chính mà Ngân hàng Nhà nước hỗ
trợ thanh khoản cho “ngân hàng hợp nhất” không phải lấy từ ngân sách mà là từ
nguồn nguồn tiền nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình điều hành
chính sách tiền tệ.
Thứ
hai, BIDV “được gì, mất gì” khi tham gia vào vụ hợp nhất, ông Hà khẳng định,
đây là nhiệm vụ chính trị được Đảng và Chính phủ giao cho BIDV trong quá trình
tái cơ cấu ba ngân hàng này. Tất cả các khoản vốn hỗ trợ thanh khoản của nhà nước
cho ba ngân hàng trên được theo dõi và hạch toán riêng; không làm ảnh hưởng đến
báo cáo cân đối kế toán và báo cáo cân đối tài chính của BIDV. BIDV chỉ cử lực
lượng nhân sự (trước mắt là 22 người) và sử dụng kinh nghiệm, kỹ năng của mình
để hỗ trợ “ngân hàng hợp nhất”.
Thứ
ba, mới đây BIDV cũng ký “hợp tác song phương” với hai ngân hàng nhỏ khác, liệu
sắp tới, có chuyện hợp nhất giữa các đơn vị này và vai trò của BIDV như thế nào
nếu sự kiện hợp nhất xảy ra, ông Hà cho biết thêm, từ xưa đến nay, các tổ chức
tín dụng luôn có các hoạt động ký kết hợp tác với nhau. Trong đó, các tổ chức
tín dụng lớn, vững thanh khoản vẫn hỗ trợ bạn hàng trên thị trường liên ngân
hàng dưới các hình thức cấp hạn mức tín chấp và cấp hạn mức có tài sản đảm bảo.
Với
những ngân hàng là bạn hàng, trong đó có các đơn vị từng ký hợp tác song phương
với BIDV, nếu được cấp hạn mức hỗ trợ thì BIDV đều lựa chọn hình thức “cấp có
tài sản đảm bảo” và tỷ lệ cấp vốn trên tài sản đảm bảo được duy trì không quá
50%.
Chọn
lựa hiệu quả
Ngày
6/12, trình bày báo cáo “Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015” tại
hội nghị CG cuối kỳ 2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình nói:
“Chúng tôi dự kiến từ nay đến 2013, sẽ thực hiện phân nhóm các tổ chức tín dụng,
hỗ trợ thanh khoản đối với các đơn vị gặp khó khăn; xây dựng phương án tái cấu
trúc và thực hiện tái cấu trúc toàn diện các ngân hàng hoạt động chưa tốt; từng
bước thực hiện tái cấu trúc toàn hệ thống. Những bước đi đầu tiên của quá trình
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã và đang được ngành ngân hàng triển khai thận
trọng, đảm bảo an toàn”.
Như
vậy, kịch bản “tự nguyện hợp nhất” như Ficombank, TinNghiaBank và SCB đang làm
sẽ là sự lựa chọn đầu tiên của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình tái cơ cấu,
được đánh giá là an toàn và hiệu quả hơn so với các hình thức khác như sáp nhập
hay phá sản, giải thể.
Theo
phân tích của một Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, lựa chọn hình thức hợp nhất,
sẽ tránh được thói quen cố hữu “riêng một góc trời” ở nhiều ngân hàng cổ phần,
vốn tồn tại quá lâu trong hệ thống ngân hàng.
Thứ
hai, xét về hiệu quả chi phí và lợi nhuận thì đây là sự giải pháp khôn ngoan. Ở
chỗ: nếu trước đây, các ngân hàng phải duy trì nhiều bộ máy hoạt động thì nay
chỉ còn một. Từ đó, ngân hàng giảm được chi phí nhân lực, nhất là số nhân lực cấp
cao. Ở nhiều ngân hàng quy mô nhỏ và trung bình, thu nhập của phó tổng giám đốc
và tổng giám đốc khoảng 2 - 5 tỷ đồng/năm.
Thứ
ba, khi tái cơ cấu, “ngân hàng hợp nhất” buộc phải xác định lại phân khúc thị
trường một cách rõ ràng thay vì “vừa đa năng hiện đại vừa bán lẻ” hoặc “vừa
nông thôn vừa thành thị” như lâu nay. Từ việc xác định lại phân khúc, ngân hàng
cần cân đong, tính toán lại quy mô mạng lưới; dẹp bỏ những điểm giao dịch thiếu
hiệu quả, nhờ đó giảm được rất nhiều chi phí duy trì mạng lưới.
Thứ
tư, khi chọn hình thức tự nguyện hợp nhất, sẽ tránh được đổ vỡ ngân hàng và lây
lan dây chuyền ra cả hệ thống. Bằng chứng là mấy ngày qua, lượng tiền gửi đã
tăng trở lại vào các ngân hàng hợp nhất nói trên theo chiều hướng ngày hôm sau
tăng hơn 50% so với ngày hôm trước, kể từ thời điểm công bố hợp nhất.
Sự
bình yên đó vừa giúp các ngân hàng vẫn duy trì hoạt động ngay cả trong quá
trình tái cơ cấu; đồng thời, nhà nước cũng không tổn thất xử lý gánh nặng đổ vỡ
ngoài việc phải bỏ ra một lượng tiền để hỗ trợ thanh khoản nhưng sau này nhà nước
sẽ được bù đắp trở lại khi “ngân hàng hợp nhất” ổn định hoạt động.
Cuối
cùng, thành quả lớn nhất thu được từ lựa chọn hợp nhất chính là củng cố niềm
tin của người dân và tổ chức kinh tế vào hệ thống ngân hàng. Điều này vừa đảm bảo
cho ngân hàng thực hiện đúng chức năng phân phối nguồn lực từ tiết kiệm đến đầu
tư; vừa giữ ổn định các thị trường vàng, ngoại tệ, khi người dân không rút tiền
để cất trữ và đầu cơ các tài sản này.
Theo VnEconomy