Năm 2011, chính phủ các nước cố gắng hạn chế lạm phát ngay cả
khi thị trường chứng khoán bị bán tháo mạnh và tăng trưởng kinh tế ở mức thấp.
Điều ngạc nhiên lớn nhất đối với nhà đầu tư chứng khoán năm
2011 không phải bởi việc các thị trường châu Âu chịu tác động từ khủng hoảng nợ
đi xuống mà chính là việc thị trường chứng khoán nhóm nước mới nổi giảm điểm
tồi tệ.
Thị trường chứng khoán Braxin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc sụt
giảm còn tồi tệ hơn cả thị trường chứng khoán Bồ Đào Nha, Italy, Ireland, Hy
Lạp và Tây Ban Nha. Nếu tính theo giá trị USD, nhóm thị trường BRIC sụt giảm
đến 26% trong khi các thị trường tồi tệ ở khu vực đồng tiền chung hạ khoảng
23%.
Trong khi nhóm nền kinh tế phát triển gặp khó khăn trong việc
tìm được động lực tăng trưởng, nhóm nền kinh tế mới nổi đối đầu với vấn đề
ngược lại. Chính sách tiền tệ siêu lỏng lẻo đã dẫn đến bong bóng bất động sản
và tình trạng khan hiếm lao động. Năm 2011, chính phủ các nước cố gắng hạn chế
lạm phát ngay cả khi thị trường chứng khoán bị bán tháo mạnh và tăng trưởng
kinh tế ở mức thấp.
Nay, tác động của các biện pháp thắt chặt đã rõ ràng, các nhà
hoạch định chính sách không sớm thì muộn cũng sẽ phải nới lỏng chính sách.
Thông thường, khi chính sách bắt đầu được nới lỏng, thời kỳ thị trường tăng
trưởng kém sẽ chấm dứt.
Tuy nhiên có lý do để tin lần này mọi chuyện sẽ không diễn
biến theo chu kỳ như vậy. Thời kỳ vàng của đầu tư vào nhóm nước mới nổi có thể
đã qua.
Việc xì hơi bong bóng tài sản không hề dễ làm. Có thể lấy ví
dụ từ thị trường chứng khoán Trung Quốc. Khi chỉ số Shanghai Composite của TTCK
Trung Quốc lên mức đỉnh cao vào năm 2007, tỷ lệ P/B cao hơn cao hơn so nhiều so
với chỉ số Nikkei năm 1989 và Nasdaq năm 2000.
Dù sau này, chính phủ Trung Quốc bơm tiền ồ ạt, nhưng thị
trường cũng chỉ như “mèo chết dựng dậy”. Thị trường Trung Quốc chỉ phục hồi
được đến khoảng một nửa mức cao trước đây và sau đó lại để mất phần lớn thành quả
tăng điểm.
Bong bóng trên TTCK Trung Quốc đã xì hơi được một thời gian
thế nhưng quá trình “xì hơi” của bong bóng bất động sản Trung Quốc mới đang ở
giai đoạn đầu. Quá trình tiềm ẩn khả năng gây ra tác động đến toàn nền kinh tế
và có thể đẩy mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư của Trung Quốc đến hồi “cáo
chung” nhanh hơn.
Nếu kinh tế Trung Quốc đi theo mô hình của Nhật cuối thập
niên 1960 và đầu thập niên 1970, quá trình suy giảm từ tăng trưởng GDP 2 con số
sẽ diễn ra nhanh chóng mặt chứ không phải dần dần, lương thực tế tăng khiến lợi
nhuận doanh nghiệp giảm.
Theo INFOTV