Chưa thể chuyển đổi ngay sang cơ chế lạm phát
mục tiêu toàn phần, song trong điều kiện hiện nay Việt Nam hoàn toàn có thể áp
dụng hình thức lạm phát mục tiêu ngầm định ngay từ 2012.
Nhận định này đã được đưa ra tại kết quả
nghiên cứu “Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn khổ chính sách tiền tệ ở
Việt Nam” của nhóm tác giả Tô Thị Ánh Dương, Bùi Quang Tuấn, Phạm Sỹ An,
Dương Thị Thanh Bình, Trần Thị Kim Chi (Viện Kinh tế Việt Nam).
Được triển khai trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ
nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám sát chính sách kinh tế vĩ mô” do Ủy
ban Kinh tế của Quốc hội chủ trì với sự tài trợ của Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), kết quả của nghiên cứu này đã được công bố
sáng nay (19/12), cùng hai nghiên cứu khác về tỷ
giá hối đoái và các chỉ tiêu giám sát tài chính.
Theo Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn
Phúc, Giám đốc dự án, đây là ba vấn đề nóng nhất hiện nay của kinh tế vĩ mô Việt
Nam. “Mong rằng kết quả dự án sẽ không nằm trong ngăn kéo mà mà sẽ lan tỏa rộng
rãi, có đóng góp tích cực vào hoạt động hoạch định chính sách”, ông Phúc nói.
Ở nghiên cứu về lạm phát mục tiêu, các tác giả
cho rằng duy trì lạm phát thấp và ổn định nên trở thành mục tiêu hàng đầu của
chính sách tiền tệ để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời phải gắn liền với
nâng cao hiệu quả các chính sách về cơ cấu kinh tế.
Theo TS Tô Thị Ánh Dương, lạm phát mục tiêu
có thể được mô tả như một cơ chế điều hành chính sách tiền tệ dựa trên nền tảng
sử dụng việc dự báo lạm phát làm chỉ số mục tiêu trung gian. Ngân hàng Trung
ương sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa chỉ số lạm phát mục tiêu (định
hướng bằng một chỉ số hoặc một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có
trách nhiệm thực hiện bất cứ chỉ tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, Ngân
hàng Trung ương có thể linh hoạt lựa chọn và sử dụng các công cụ để đạt một mục
tiêu duy nhất - đó là chỉ số lạm phát mục tiêu.
Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng, đối với Việt
Nam việc hướng tới chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu là phù hợp với Chiến lược
phát triển hệ thống Ngân hàng Việt Nam, theo đó xây dựng Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại có nhiệm vụ chủ yếu là kiểm soát lạm
phát để ổn định tiền tệ và giám sát để đảm bảo hoạt động lành mạnh của hệ thống
ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, để đưa ra
áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu thành công tại Việt Nam, cần đáp ứng
8 điều kiện. Trong đó, điều kiện thứ nhất, ổn định giá cả phải là mục tiêu hàng
đầu của chính sách tiền tệ.
Những điều kiện tiếp theo cũng đặt ra không
ít thách thức với ngân hàng Trung ương. Nhất là phải có khả năng dự báo lạm
phát kỳ vọng thật tốt.
"Tuy nhiên, tại Việt Nam ngay cả việc
tính toán CPI cũng còn nhiều hạn chế", nhóm nghiên cứu nhận xét.
Nghiên cứu cũng dẫn kinh nghiệm các nước áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu
cho thấy, đa số các nước áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu hoàn toàn (full –
fledged inflation targeting -FFIT) vào thời điểm kiềm chế lạm phát thành công,
chỉ số lạm phát đang giảm xuống.Do đó, việc thực thi chính sách đã tạo niềm tin
cho công chúng vào khả năng của Ngân hàng Trung ương trong việc đạt được mục
tiêu lạm phát thấp và ổn định.
Trong khi đó, mức lạm phát tại Việt Nam từ
năm 2004 tới nay biến động phức tạp, áp lực lạm phát ngày càng tăng. Bởi vậy,
trong thời điểm hiện tại Ngân hàng Trung ương chưa thể áp dụng được ngay chính
sách tiền tệ lạm phát mục tiêu hoàn toàn. Mà khởi đầu, Việt Nam có thể áp dụng
lạm phát mục tiêu ngầm định (ngân hàng Trung ương có thể thảo thuận với Chính phủ
về việc thực hiện lạm phát mục tiêu mà không cần công bố cho toàn thể công
chúng).
Phó chủ nhiệm Nguyễn Văn Phúc cho biết, sau
khi tiếp thu các ý kiến để hoàn thiện, các nghiên cứu nói trên sẽ được gửi tới
các vị đại biểu Quốc hội cùng các cơ quan thụ hưởng dự án, như Văn phòng Trung
ương Đảng, Văn phòng Chính phủ và Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia.
Theo VnEconomy